nghiên cứu khoa học về đồng tính
phương pháp khoa học kết hợp định lượng và định tính, các tác giả đã luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn, trong đó có kinh tế trang trại, từ đó đề ra những định hướng và giải pháp cho phát triển kinh
Đức - TS. Hồ Sĩ Quý, Nxb Chính trị quốc gia; Chƣơng trình Khoa học - Công nghệ cấp nhà nƣớc mã số KX-05 “Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá” giai đoạn 2001-2005, do GS,VS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm gồm 12 đề tài.
Khi nghiên cứu khoa học thì đề tài ấy cần phải đảm bảo một số đặc điểm như tính mới; Tính tin cậy; Tính khách quan; Tính rủi ro; Tính kế thừa; Tính cá nhân. Cụ thể: – Tính mới: Nghiên cứu khoa học là quá trình sáng tạo ra những điều mới lạ, do đó nó có tính mới.
người đồng tính trong cộng đồng và phần lớn sinh viên không biết về vấn đề. này (45%); tỷ lệ sinh viên chọn phương án ‘trên 2%’ cũng khá cao (31.7%) và. chỉ có 15.7% sinh viên lựa cho rằng người đồng tính chiếm ‘khoảng 1 đến. 2%’ dân số nước ta (phương án gần
Tải xuống bức ảnh Cận Cảnh Nhóm Nghiên Cứu Khoa Học Với Giải Pháp Rõ Ràng Trong Phòng Thí Nghiệm Nữ Nhà Hóa Học Tóc Vàng Cầm Ống Nghiệm Thủy Tinh Trong Khi Đồng Nghiệp Của Cô Kiểm Tra Kết Quả Bằng Máy Tính Bảng Xét này ngay bây giờ.
mimpi bersetubuh dengan orang lain menurut primbon jawa togel. Hỏi Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính - Nhờ các bạn và mọi người tư vấn, giải đáp giúp đỡ mình vấn đề trên hiện mình đang chưa tìm được hướng giúp mình. Nghiên cứu — Thư viện LGBT Đây là nghiên cứu khoa học đầu tiên trong nước sử dụng phương pháp hỗn hợp để tìm hiểu và sáng lập một thang đo lường về sự tự kì thị ở cộng đồng LGBTIQ+ trẻ. Nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn sâu Chi Tiết Please leave your comments here Bạn có những câu hỏi hoặc những thắc mắc cần mọi người trợ giúp hay giúp đỡ hãy gửi câu hỏi và vấn đề đó cho chúng tôi. Để chúng tôi gửi vấn đề mà bạn đang gặp phải tới mọi người cùng tham gia đóng gop ý kiếm giúp bạn... Gửi Câu hỏi & Ý kiến đóng góp » Có thể bạn quan tâm Video mới Câu hỏi Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính quý đọc giả quan tâm nhiều được Chúng tôi tư vấn, giải đáp bạn tham khảo - FAQs Tôi muốn các bạn tư vấn trực tiếp về Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính có được không. Hay các bạn chỉ hỗ trợ trả lời qua địa chỉ E-mail, ứng dụng chat trực tuyến? Chúng tôi hỗ trợ tất cả đọc giả từ qua các kênh liên lạc như gọi điện trực tiếp qua số Hotline Từ 7h đến 23h tất cả các ngày trong tuần, E-mail, Thư fax nhanh hoặc các ứng dụng live chát online sẽ có tổ tư vấn trực ca trả lời và trao đổi vấn đề bạn cần hỗ trợ về Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính. Khi tư vấn về Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính chúng tôi có phải gửi giấy tờ và thông tin gì cho các bạn không. Khi cần vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính thì các bạn cần trao đổi rõ đang vướng gì, thủ tục gì để từ đó các bạn tư vấn sẽ đưa ra hướng giải quyết giúp bạn tiếp kiểm thời gian xử lý tủ tục Gửi cho chúng tôi ảnh hoặc bản photo copy. Còn đối với câu hỏi tư vấn thông thường thì các bạn chỉ cần trao đổi trực tiếp không cần gửi bất kỳ thông tin gì cho các tư vấn viên. Đặc biệt thông tin cá nhân như Thông tin cá nhân quan trọng tài khoản ngân hàng, ... và đặc biệt chúng tôi không thu bất kỳ khoản phí nào liên quan đến tư vấn. Tránh một số đơn vị lợi dụng tin tưởng của các bạn dành cho chúng tôi. Họ mạo danh chúng tôi để thu các khoản phí hỗ trợ tư vấn chuộc lợi cá nhân. Khi nào câu hỏi nào về Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính thì các bạn hỗ trợ trả lời và tư vấn? Tất cả câu hỏi Nghiên Cứu Khoa Học Về đồng Tính mà bạn đang không có hướng giải quyết hoặc cần tham khảo thêm hướng xử lý hay liên hệ với chúng tôi với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nhiệm tư vấn giúp bạn để bạn có câu trả lời phù hợp nhất với vấn đề bạn đang gặp phải
Trần Ngọc Hiếu “Một cộng đồng chỉ được coi là thiểu số khi nó tiềm ẩn những đe dọa nào tới số đông còn lại, dù thực hay tưởng tượng. Và hãy nhớ, không có mối đe dọa nào là hoàn toàn không có thực cả…Người thiểu số cũng là người, con người, chứ không phải thiên thần”. Christopher Ísherwood1 Văn học đồng tính queer literature là gì? Là văn học được viết bởi các tác giả đồng tính? Là các tác phẩm lấy đời sống của người đồng tính làm đề tài? Là tác phẩm đề cập, khắc họa hình tượng nhân vật đồng tính? Văn học đồng tính được xác lập nhờ một lối viết đặc biệt hay đó còn là dòng văn học được hình thành bởi tưởng tượng của một cách đọc đặc biệt? Đó những câu hỏi dường như chối từ những khẳng định quả quyết. Bởi lẽ đồng tính – như một căn cước giới tính bị xem là thiểu số – luôn phải đối diện với những định kiến, luôn có khả năng bị gây tổn thương – thường phải tìm đến những hình thức ngụy trang để tự biểu hiện; như một kiến tạo của diễn ngôn, đồng tính là một thứ diễn ngôn bị trấn áp, luôn bị ngoại biên hóa trong lịch sử văn hóa, nó thường là một tiếng nói bị khuất lấp, bị phân mảnh; như một tập hợp các ký hiệu trình hiện representation, đó lại là một tập hợp các cái biểu đạt không cố định, không chặt, trôi nổi, tùy thuộc vào các ngữ cảnh văn hóa-lịch sử. Văn học đồng tính ở Việt Nam có diện mạo như thế nào, có đặc điểm gì? Với câu hỏi này, tính phức tạp còn tăng lên nhiều lần. Thứ nhất, sự mô tả người đồng tính trong lịch sử thuộc về phần vi lịch sử micro-history, một thứ tiểu tự sự tồn tại dưới hình thức các mảnh vỡ, các vết tích cần đến nhiều nỗ lực khảo cổ, khớp nối, nhất là trong tình trạng các tư liệu lịch sử ở ta còn manh mún. Thứ hai, không thể mô tả diện mạo văn học đồng tính như thực thể biệt lập với các thực hành văn hóa khác ngôn ngữ, tôn giáo, thời trang, nghệ thuật, văn hóa đại chúng, truyền thông,… Ở đó, người đồng tính vừa tự đánh dấu, vừa bị đánh dấu bởi các biệt ngữ, vừa lợi dụng, vừa bị lợi dụng bởi các hoạt động biểu hành trong đời sống để biểu hiện mình. Thứ ba, viết và đọc văn học đồng tính ở Việt Nam có điểm gì khác biệt trong việc biểu hiện phái tính so với loại hình nghệ thuật khác; ngôn ngữ tạo ra những thuận lợi đồng thời gây ra những trở ngại gì trong việc thể hiện và tiếp nhận hình tượng người đồng tính? Thứ tư, ý nghĩa của việc đọc/ phê bình đồng tính queer reading/ queer criticism trong ngữ cảnh Việt Nam là gì là công khai hóa những mã giới tính vốn thường chìm trong các văn bản, là bóc trần những lớp vỏ ngụy trang cho tâm lý sợ đồng tính homophobia, là một động thái gắn kết phê bình văn học với các hoạt động xã hội đấu tranh cho quyền của người đồng tính đang diễn ra khá sôi nổi gần đây; là việc tìm kiếm một khuynh hướng, một “gu” thẩm mỹ riêng, nếu có, của dòng văn học này? Với bài viết này, những câu hỏi đặt ra ở trên chưa thể tìm được câu trả lời thấu đáo ngay. Một cách thẳng thắn, những gì trình bày ở đây, trước hết, giống như một tổng thuật về lịch sử của dòng văn học đồng tính ở Việt Nam, từ những hình thức ngụy trang trong lịch sử đến các tự thuật công khai thú nhận giới tính hiện nay. Mặt khác, bài viết còn đưa ra một dự phóng để suy nghĩ xa hơn về văn học đồng tính nhằm giải phóng hình dung về dòng văn học này như một “ghetto” của một cộng đồng thiểu số. Từ lý thuyết đồng tính queer theory đến văn học đồng tính ở Việt Nam trong lịch sử Thực ra dịch “queer theory” là lý thuyết đồng tính có lẽ là cách dịch còn hẹp nghĩa. Bởi mối quan tâm của lý thuyết này không chỉ giới hạn trong phạm vi vấn đề đồng tính. Nói như Eve Kosofy Sedgwick, một học giả hàng đầu của lý thuyết này, thì “queer” có thể quy chiếu tới “một mạng lưới mở của những khả thể, những kẽ hở, những sự chồng chéo, những cộng hưởng và xung đột, những sai lẫn và những thái quá về ý nghĩa khi những thành tố cấu thành phái tính của bất cứ ai, khuynh hướng tình dục của bất cứ ai không phải/ không thể là những cái biểu đạt nguyên khối”2. Một cách ngắn gọn, từ “queer” hàm chứa trong nó tập hợp các biểu hiện cho thấy giới tính là một ý niệm thuộc thể lỏng hơn là một khối rắn chắc, xác định, đóng kín. Sự hình thành thuyết đồng tính như một dòng mạch tư tưởng trước hết có liên hệ mật thiết với các phong trào chính trị – xã hội đấu tranh cho quyền bình đẳng của người đồng tính, mà sự kiện thường được dẫn ra như mốc quan trọng nhất là cuộc nổi loạn của những người đồng tính tại quán bar Stonewall, thành phố New York, nước Mỹ năm 1969. Stonewall khi đó được biết đến như một quán bar dành cho cộng đồng gay, đặc biệt là dân gay ở tầng lớp dưới đáy xã hội như những người đồng tính vô gia cư, mại dâm nam, những người thích ăn mặc giả gái,… Vụ đụng độ giữa những người đồng tính với cảnh sát này được ví như sự phát động đầu tiên cho những hoạt động của phong trào giải phóng giới đồng tính diễn ra sau đó, bắt đầu từ Mỹ. Lý thuyết đồng tính được xem như điểm tựa tư tưởng của phong trào này. Ở phương diện này, sự xuất hiện của lý thuyết đồng tính có được sự cộng hưởng tinh thần với các lý thuyết khác như nữ quyền luận, phê bình chủng tộc/ sắc tộc, hậu thực dân luận,… Chúng phản ánh khúc ngoặt của lý thuyết văn hóa/ văn học từ cuối thập niên 60 thế kỷ trước hướng đến cái ngoại biên của văn hóa, hướng đến các bộ phận thiểu số, chất vấn tính hợp thức của các khung tri thức được xác lập bởi ý thức hệ thống trị. Thuyết đồng tính cho đến giờ vẫn là một dòng mạch lý thuyết phát triển năng động, quy tụ nhiều nhà tư tưởng, nhiều học giả mà những kiến giải của họ về giới, về tình dục thực chất còn ảnh hưởng rất mạnh đến sự hình thành kiểu tư duy phê phán mới. Đầu tiên phải nhắc đến Michel Foucault với công trình có ý nghĩa nền tảng cho lý thuyết đồng tính – bộ ba History of Sexuality Lịch sử tính dục. Tính đột phá của công trình này nằm ở chỗ Foucault đã giải phóng tính dục, giới tính ra khỏi quan điểm bản chất luận, tự nhiên luận, theo đó, ông cho rằng giới tính, tính dục là ý niệm được tạo lập bởi các diễn ngôn. “Tác phẩm của Foucault quan trọng vì nó cho thấy tính dục không đơn giản là sự biểu hiện tự nhiên của một động cơ hay ham muốn bên trong nào đó. Các diễn ngôn về tính dục liên quan đến sự vận hành của quyền lực trong các mối quan hệ người cũng như chúng chi phối sự tạo lập bản sắc cá nhân. Bằng việc nhấn mạnh đến những cách thức mà tính dục được viết lên/ viết vào thân thể, những cách làm cho tình dục đồng tính trở thành sự vô hình hay hữu hình về văn hóa, Foucault đã bắt đầu phá vỡ ý niệm về tính dục như một dữ kiện đời sống trong suốt”3. Sau Foucault, có thể nhắc đến nhiều học giả tầm cỡ khác như Judith Butler, Eve Kosofy Sedgwick, Lee Edelman, Ann Cvetkovich, Michael Warner,…; mỗi người lại tiếp cận vấn đề “queer” một cách khác nhau và phát triển tư tưởng rất phức tạp. Nên ở một mức độ nào đó, có thể hình dung “queer theory” hiện nay đang tồn tại ở dạng số nhiều “queer theories”. Chúng còn móc nối với những chủ điểm nghiên cứu khác như chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc, phê bình sinh thái,… Có lẽ điểm mấu chốt chung nhất ở các thực hành của các học giả chuyên sâu về thuyết đồng tính là “gỡ hành vi tính dục sex acts ra khỏi bản sắc của phái tính gender identity”, từ đó chứng minh “tính dục về bản chất không phải là một đặc điểm cá nhân mà là một phạm trù văn hóa có sẵn”4. Judith Butler và Eve Kosofy Sedgwick sẽ phát triển xa hơn luận đề của Foucault cho rằng giới tính, tính dục mang tính diễn ngôn khi họ thống nhất với nhau ở quan điểm giới tính, tính dục là các diễn ngôn biểu hành “Người ta không sinh ra là đàn bà, đàn ông hay đồng tính người ta trở thành đàn bà, đàn ông hay đồng tính chỉ trong ngữ cảnh sự trình diễn, biểu hành hay không trình diễn, biểu hành những hành vi nhất định nào đó. Đồng tính không gọi tên một trạng thái tồn tại nó biểu thị một hữu thể being thực hiện một số hành vi nhất định nào đó, kẻ được nhận diện và được phân loại bằng những phạm trù xã hội hơn là những thuộc tính bản chất”5. Anh thuộc giới nào, theo đó, không phải được xác định theo những bản chất được mặc định là “trời cho”, “sinh ra đã thế” mà điều này phụ thuộc vào việc anh làm gì, anh biểu hành, anh trình diễn những hành vi gì và như thế nào trong những ngữ cảnh văn hóa cụ thể. Đến đây, có thể thấy, thuyết đồng tính không chỉ đơn giản nhằm biện hộ cho quyền của người đồng tính. Đồng tính có thể xem như một ý niệm ở giữa, một khoảng không gian thứ ba, từ đó, cho thấy những đối lập nhị nguyên về phái tính thực chất rất bất ổn. Nếu đồng tính nói riêng, phái tính nói chung đều là những quy ước diễn ngôn thì cũng có thể tạo ra sự kháng cự ngay trong bản thân diễn ngôn, có thể phá vỡ những quy ước, những thương thỏa này để xác lập một không gian tự do hơn, rộng rãi hơn, linh hoạt hơn và độ lượng hơn cho mỗi chủ thể. Thuyết đồng tính, cũng như nhiều lý thuyết văn hóa đương đại, trong khi tưởng như làm lung lay những phạm trù nền tảng, kiên cố vốn tạo nên trật tự và sự thống nhất của bức tranh thế giới, thực ra lại tạo ra những đường thoát, những kẽ hở để con người tự giải phóng mình, tự xác lập giá trị tự thân, thay đổi tương quan quyền lực trong các mối quan hệ người, trong quan hệ giữa con người với thế giới. Đấy là lý do vì sao lại có xu hướng “queering” tạm dịch là “làm rối”/ “làm nhiễu” từ nhãn quan đồng tính luận các phạm trù khác như dân tộc, chủng tộc, tự nhiên,… Trở thành “queer” như thế cũng có thể hiểu trở thành một cái gì đó có khả năng phản tư, chất vấn trước các ý niệm, giá trị tưởng như đã được mặc định yên ổn, được coi là bình thường hay chuẩn mực. Tóm lại, nếu bản thân “queer”, và rộng hơn là “phái tính”, là những phạm trù biểu hành, là những “vai diễn” trong những ngữ cảnh văn hóa cụ thể thì văn học đồng tính là một ý niệm mang đặc tính của thể lỏng. Nhưng thực ra thì ngay cả các ý niệm như văn học nữ hay văn học nam giới cũng không xác định, không rõ ràng hơn văn học đồng tính là bao nhiêu. Bài viết này đề xuất một định nghĩa “lỏng” về văn học đồng tính đó không phải là dòng văn học được xác lập bởi một nhóm tác giả đặc thù hay xoay quay những nhân vật có độ nhiễu về bản sắc giới tính. Văn học đồng tính nên được xem như một dải phổ của những biểu hiện về tình trạng mơ hồ và xu hướng lệch chuẩn về giới tính, thân thể, tình dục vốn rất đa dạng, phức tạp từ quan hệ luyến ái đồng giới, hiện tượng giả nam/ giả nữ, hiện tượng bị thiến, hiện tượng đổi vai “giới” trong nghệ thuật tự sự, các hình thức ngụy trang giới tính,… Một dòng văn học đồng tính ở Việt Nam, nếu được hiểu như trên, trước hết, cần phải được khảo sát từ trong văn học dân gian, nơi văn học tồn tại trong trạng thái nguyên hợp với các hình thái folklore khác như tín ngưỡng, hội hè, sân khấu dân gian,… – những hình thái mang tính chất trình diễn rõ nét, tạo điều kiện thuận lợi cho các hành vi bộc lộ, đảo trang hay vượt rào giới tính. Một sinh hoạt như lên đồng trong Đạo Mẫu cho thấy tín ngưỡng dân gian không chỉ có thể hiểu như một hình thức cho phép sự hoán vị, vượt rào giới tính diễn ra công khai, mà cần được xem như một không gian nơi các chủ thể “queer” đoạt quyền lực của mình, vượt lên những kỳ thị, trấn áp diễn ra đối với họ trong không gian thường nhật và ngay trong ngôn ngữ thường nhật. Một vở chèo như Quan Âm Thị Kính có thể được diễn giải như một dụ ngôn về khả năng nhiễu của những cái biểu đạt giới tính và bi kịch của vở diễn bắt nguồn từ độ nhiễu ấy. Văn học trung đại Việt Nam được hình thành dưới ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, một học thuyết tư tưởng lấy nam giới làm trung tâm. Tư tưởng nam quyền vô hình hóa, ngoại vi hóa các giới tính khác một tích truyện như Lưu Bình – Dương Lễ cho thấy rõ phụ nữ bị làm rỗng, bị công cụ hóa để tôn vinh đạo lý tình bạn giữa những người đàn ông trong xã hội phong kiến. Đương nhiên, đồng tính cũng sẽ bị ngoại vi hóa, bị đè nén trong ngữ cảnh văn hóa như vậy. Chỉ có điều như Tạ Chí Đại Trường trong nghiên cứu rất công phu của mình – Sex và triều đại – cho thấy, sự bất thường về giới tính trong các xã hội phương Đông chỉ được nhìn nhận như một hiện tượng gây tò mò, ngạc nhiên và cùng lắm là bị chế giễu, nhạo báng chứ không phải là một tội lỗi như ở các xã hội phương Tây6. Văn học đồng tính Việt Nam thời trung đại có thể được chú ý ở hai phương diện kiểu tác giả và sự thể hiện hình ảnh người đồng tính, chuyển giới, bị thiến hoạn. Ở phương diện thứ nhất, Tạ Chí Đại Trường đã có những phân tích rất thú vị về một hiện tượng khá phổ biến trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XVIII các tác giả nhà nho “núp bóng đàn bà”, nhập vào vai nữ để ký thác tâm sự trong các tác phẩm của Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Thiều,… Tạ Chí Đại Trường gọi đây là hiện tượng “nhà nho lại cái”, một hiện tượng được hình thành trên những cơ sở văn hóa – lịch sử những áp lực từ tầng lớp xuất thân, từ hệ thống kiến thức ngoại lai mà nho sĩ phải tiếp thu, địa vị thường có xu hướng bị ngoại biên hóa trong cấu trúc xã hội, bối cảnh loạn lạc của thời đại, sự trấn áp của đạo đức Nho giáo,… Tất cả điều này khiến cho các nhà nho phải tìm đến một phương thức để giải tỏa ẩn ức. Tạ Chí Đại Trường nhận xét “Sự biến hình, dù trong tâm tưởng, và vô ý thức, cũng đã có nguyên nhân từ sự đè nén của quyền lực chính trị, của đạo lý đã bóp mềm con người… Dạng hình mượn làm người nữ phối hợp với sự yếu mềm về tâm tính, đủ cho sự giả trang của nho thần che mắt được quyền lực bên trên”7. Chắc hẳn sẽ còn cần phải thảo luận liệu hiện tượng nhập vai nữ để tự sự này có thể xem như là chuyển vị nhục cảm đồng tính vào trong nghệ thuật ngôn từ hay chưa trên thực tế, Cung oán ngâm hay Chinh phụ ngâm đều có những câu thơ đẫm chất nhục cảm, thể hiện những cung bậc mãnh liệt của dục vọng, của thân xác hay đơn giản chúng ta chỉ nên thận trọng coi đây là một kỹ thuật tự sự. Nhìn rộng ra, cũng phải xem hình thức thác lời bằng cách “chuyển giới” tưởng tượng này trong mối liên hệ với một đề tài khá phổ biến trong thơ ca cổ điển là đề tài “khuê oán”, trong đó các tác giả xuất sắc nhất của mảng đề tài này chủ yếu là các nhà thơ nam. Nhưng hiện tượng “nhà nho lại cái” cho phép ta chứng thực ngay một điều khi nam giới trở thành trung tâm của ý thức hệ, nó không chỉ ngoại vi hóa, vô hình hóa, tạo nên những trấn áp đối với những giới tính khác, ý niệm nam tính còn trấn áp, đè nén chính bản thân của người đàn ông. “Queer” trong tư duy tự sự trung đại có thể được xếp vào phạm trù “kỳ”, được hiểu như là “cái lạ thường”, “cái kỳ lạ”,… Sự xuất hiện của những kẻ có biểu hiện bất thường về giới tính thường được mô tả gắn liền với những biến cố bất an của xã hội. Theo khảo sát của Nguyễn Thanh Tùng, các hình tượng nữ được miêu tả theo hướng nam hóa xuất hiện nhiều hơn xu hướng ngược lại – nam bị nữ hóa8. Một ghi chép về hình tượng Bà Triệu trong sáchGiao Chỉ ký do Tăng Cổn, một quan chức ở Giao Châu thế kỷ IX viết, sau này được chép lại trong Đại Việt sử ký toàn thư, có thể được xem như là một cách mô tả “queer” hóa “Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái em họ Triệu, vú dài 3 thước không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các huyện trong quận, thường mặc áo ngắn Bắc Vàng đi guốc gỗ, ngồi đầu voi đánh nhau, sau chết làm thần”9. Bà Triệu được tái hiện ở đây như là một hình tượng dị kỳ không chỉ ở kích thước được phóng đại quá cỡ của bầu vú mà ở các biểu hiện nam hóa lồ lộ thông qua các hành vi vốn được mặc định là đặc quyền của nam giới và đặc biệt ở việc “không lấy chồng” – một sự lệch chuẩn khỏi khuôn khổ của phụ nữ rất khó chấp nhận được từ ý thức hệ Nho giáo. Trường hợp nam bị nữ hóa còn lại được một ghi chép trong sử sách là câu chuyện về An Vương Tuân, con cả của vua Lê Hiến Tông. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn ghi rằng An Vương Tuân vốn là người thông minh học rộng, sức lực hơn người nhưng tính khí nóng nảy, ngang bướng, đặc biệt lại thích mặc áo của phụ nữ, từng có âm mưu dùng thuốc để đầu độc chính mẹ mình và do đó không được lựa chọn làm người nối ngôi10. Tạ Chí Đại Trường đã phân tích cách Lê Quý Đôn kể câu chuyện về An Vương Tuân để đi đến một nhận xét sâu sắc “Lời của Lê Quý Đôn làm nổi sự hả hê của một người thấy có kẻ trở về với Chính giáo sửa bỏ nết cũ, thờ mẹ rất hiếu’. Nhưng khi sử gia vô tình dùng ngôn từ kinh sách “giữ mình kín đáo” để chứng tỏ thêm sự đắc thắng của đạo lý thì đồng thời cũng cho chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm của một con người lạc loài với giới tính xác định vốn có từ trong căn bản mà phải bị đàn áp, nén sâu”11. Tóm lại, khi văn học trung đại với ý thức hệ Nho giáo định vị người đàn ông ở trung tâm thì đồng thời nó cũng nảy sinh các diễn ngôn kháng cự trong lòng nó. Đó là các diễn ngôn có xu hướng “queer” hóa trong thơ văn của các nhà nho lại cái, chúng mềm hóa ý niệm về nam tính theo lý tưởng Nho giáo. Nhưng nếu xem xét cách thể hiện hình tượng bất thường giới tính trong văn chương trung đại thì ta lại thấy rõ định kiến vẫn bị dồn về phía phụ nữ. Văn học hiện đại với sự mở cửa cho ý thức cá nhân được công khai tự biểu hiện. Môi cảnh xã hội được hiện đại hóa dưới ảnh hưởng của văn minh phương Tây, dẫu vậy, vẫn tồn tại những rào cản buộc các chủ thể đồng tính phải tìm đến các hình thức ngụy trang cho những dục cảm của mình. Bước đầu đã có những nghiên cứu đáng chú ý về cơ chế và các hình thức ngụy trang và chuyển vị dục cảm đồng tính trong sáng tác của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, thậm chí ở cả những người tù cộng sản được ghi lại trong hồi ký của Trần Huy Liệu12. Ở đây, chúng tôi xin dừng lại để thảo luận sâu hơn về trường hợp Xuân Diệu, vừa như một tác giả đồng tính, vừa như đối tượng “queer” được tái hiện qua diễn ngôn của kẻ khác hồi ký Tô Hoài, các giai thoại văn chương. Trên thực tế, chưa thể nói Xuân Diệu là nhà thơ “come-out” tự giác trong sáng tác của mình. Dục cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu phải tự “chuyển vị” mượn chữ của Nguyễn Quốc Vinh, phải ngụy trang dưới nhiều biểu hiện khác nhau chuyển vị qua một đối tượng khác, gắn với một không gian khác trường hợp điển hình là bài thơ “Tình trai”, qua các ám thị, các biểu tượng con thú hoang, bờ cát,… hay qua trạng thái tự si, tự mê chính bản thân mình13. Có hai điều đáng nói ở đây thứ nhất, hình thức ngụy trang giới tính trong thơ Xuân Diệu bị quy định bởi chính ý thức hệ lãng mạn của nhà thơ. Dục cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu nghiêng về sự ngưỡng vọng thân thể nam giới, nghiêng về những đồng điệu tinh thần, nó e dè, thậm chí sợ hãi tình dục, xem tình dục như là nhân tố có khả năng hủy hoại thân thể, dẫn đến tình trạng con người thù ghét, xa lạ với thân thể của chính mình. Trong truyện ngắn Thân thể, Xuân Diệu đã mượn lời nhân vật Khuông – một người đàn ông đã có vợ nói với các bạn nam thanh niên “Ồ? Các em bé của tôi thèm khát đến thế sao? Tội nghiệp. Các em còn mới mẻ thực. Thân thể! ôi thân thể của chúng ta! Tôi đã giết hắn đã rõ lắm rồi… Ta nghĩ cái thú toại thịt là thú của thiên đường, ta mong được lên đến từng trời thứ bảy; ta ao ước, khao khát, thèm thuồng, van xin; chỉ vì các anh chưa được nếm một cái quả, nên các anh chảy nước miếng, các anh ăn trước bằng tưởng tượng. Nhưng hai tuần, một tháng sau khi đã bước bước đầu! Đê vỡ hẳn, nước trào ào, không ai gìn giữ nữa. Ta vồ lấy thú vui, như mất trí. Tôi biết một người chi tiêu trọn cái thanh niên của họ trong hai tháng mà thôi”14. Ở đây, cần nói thêm định kiến về tình dục, xem nhục cảm như là thứ tiềm tàng khả năng gây tha hóa là một định kiến phổ biến trong thơ lãng mạn. Ta có thể kiểm chứng điều này trong thơ của Vũ Hoàng Chương chẳng hạn. Thứ hai, nhiều bài thơ ngụy trang xúc cảm đồng tính của Xuân Diệu tinh vi đến mức nhà phê bình nếu không dựa vào những giai thoại bên ngoài văn bản sẽ không phát hiện ra15. Điều này đặt ra vấn đề cần phải suy ngẫm tính hợp thức của phê bình văn học đồng tính là gì? Phải chăng phê bình văn học đồng tính luôn cần phải tiền giả định một chủ thể sáng tác có vấn đề về bản sắc giới tính? Phê bình văn học đồng tính có khi nào giống như một hành vi thám tử truy tìm những chứng cứ trong và ngoài văn bản văn chương để phát lộ bí mật về giới tính mà nhà văn cố tìm cách che đậy nó bằng những ký hiệu ngôn từ vốn khó trực quan hơn các nghệ thuật có yếu tố thị giác? Phê bình văn học đồng tính, trong trường hợp này, đứng trên một lằn ranh mong manh giữa mục đích khám phá cơ chế tâm lý sáng tạo của tác giả trong đó sự nhận thức về giới tính là một nhân tố quan trọng với nguy cơ làm tổn thương chính những tác giả? Bản thân Xuân Diệu cũng là đối tượng được tái hiện trong các tự sự khác về đề tài đồng tính. Có thể giai thoại về giới tính của nhà thơ đã ngấm ngầm rò rỉ từ lâu nhưng nó chỉ được chính thức được ghi chép lại lần đầu trong hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài. Qua câu chuyện về giới tính của Xuân Diệu mà Tô Hoài kể lại, có thể thấy phản ứng khá phổ biến của xã hội đương thời và có lẽ cho đến bây giờ cũng vẫn vậy về đồng tính 1/ đồng tính là thứ khiến người ta sợ hãi, né tránh như một thứ bệnh dị kỳ “Hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình âu yếm. Các bạn của ông ấy rất sợ, vì vậy, cứ đêm đêm, họ lại tỵ nạn sang nhà khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu”16; 2/ đồng tính như một tình trạng khiến bản thân mình phải thấy xấu hổ nỗi hổ thẹn bắt nguồn từ chỗ cá nhân bị bóc trần bí mật của mình trước đám đông, cái riêng tư của bản thân bị công cộng hóa. Việc Xuân Diệu phải viết bản kiểm điểm cho những hành vi bộc lộ ham muốn nhục cảm của mình, về bản chất, đồng dạng với cơ chế phạt vạ phụ nữ chửa hoang trong xã hội cũ ở cả hai trường hợp, bí mật của cá nhân bị rêu rao, bị công khai để thỏa mãn cảm xúc cộng đồng, thỏa mãn niềm say mê thị uy quyền lực và phán xét của đám đông; 3/ điều này không được ghi công khai trong Cát bụi chân ai, do đồng tính là thứ đáng xấu hổ thế nên nó có thể phương hại đến quyền lực việc Huy Cận sinh thời đã phản đối gay gắt Tô Hoài khi ông cho đăng dài kỳ hồi kýCát bụi chân ai trên báo Tiền Phong17. Nhưng không chỉ Huy Cận mà nhiều người cũng nghĩ hồi ký của Tô Hoài có phần bất nhẫn khi kể lại câu chuyện của Xuân Diệu. Bởi Xuân Diệu vốn đã được tôn vinh như một hình tượng điển phạm trong văn học Việt Nam với danh xưng “ông hoàng của thơ tình”. Người ta phản ứng với hồi ký của Tô Hoài có lẽ xuất phát từ tâm lý e sợ điển phạm lung lay, bởi một mặc định trong nhận thức rằng tình yêu, như là đối tượng của thơ tình, dứt khoát phải là tình yêu dị tính. Vì như thế, tình yêu ấy mới có sức phổ quát. Và ngay cả những phê bình biện hộ cho tình cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu cũng bị ám ảnh bởi tính phổ quát. Những cách đọc ấy vừa chỉ ra bằng chứng khó chối cãi được về sự hiên diện của những dục cảm đồng tính trong thơ Xuân Diệu, vừa khẳng định theo tinh thần đại khái rằng nếu thơ tình Xuân Diệu là “tình trai” thì tình trai cũng là tình yêu thôi, mà tình yêu đích thực đâu có phân biệt tình cảm dị giới hay đồng giới. Song liệu biện hộ như thế đã thỏa đáng? Cá nhân người viết bài này khi đọc Cát bụi chân ai của Tô Hoài không nghĩ tác giả bất nhẫn với người bạn văn đã quá cố, không thể nói lại được nữa. Câu chuyện về Xuân Diệu cho ta thấy nỗi khổ sở, cay đắng của con người một thời khi muốn sống cái phần cá nhân nhất, riêng tư nhất của mình. Sẽ có ý nghĩa hơn nếu như từ đây, ta có thể so sánh Xuân Diệu với các nhà thơ đồng tính trong các xã hội cộng sản trước đây để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa đồng tính và chính trị ở một giai đoạn lịch sử đặc biệt. Văn học đồng tính Việt Nam đương đại – Văn học tự thú? Nhìn lại dòng mạch văn học đồng tính ở Việt Nam trong lịch sử, tự thú dường như là nội dung quan trọng nhất. Đến mức người ta có thể nghĩ văn học đồng tính ở Việt Nam là văn học tự thú. Nhất là khi quan sát văn học đồng tính Việt Nam đương đại. Điều đáng nói là tự thú trong văn học đồng tính Việt Nam đương đại diễn ra trong một bối cảnh đã cởi mở hơn nhiều. Trong bộ phim ca nhạc ăn khách Những nụ hôn rực rỡ 2010, ở cảnh kết, diễn viên Tô Lâm, một người đồng tính ngoài đời, đã có màn tự thú thật về giới tính trong một bộ phim hư cấu. Trên các chương trình thực tế được khán giả Việt Nam chú ý, người ta thường xuyên chứng kiến nhân vật tham gia giới thiệu mình như là người thuộc thế giới thứ ba một cách tự nhiên, thậm chí sự xuất hiện của họ còn là nhân tố tạo cho cái gọi là “thực tế” truyền hình có thêm “kịch tính” – điều mà khán giả thường chờ đợi. Truyền thông đại chúng vừa tạo ra không gian chính thống để người đồng tính công khai khẳng định giới tính của mình, không cần nép vào tôn giáo để hợp thức hóa giới tính đồng thời, khi biến người đồng tính thành hình ảnh, biên tập hình ảnh ấy theo những áp lực của kiểm duyệt và nhu cầu của thị hiếu đại chúng, truyền thông, đến lượt mình, lại tạo ra một sự trấn áp đối với người đồng tính bằng việc tạo ra những bản kẽm về họ. Nhưng ta sẽ nói đến điều này kỹ hơn ở phần dưới bài viết. Bóng – tự truyện đồng tính của Nguyễn Văn Dũng, do hai nhà báo Đoan Trang và Hoàng Nguyên chấp bút, xuất bản năm 2008 – là tác phẩm mở đầu cho thể loại tự thuật thú nhận công khai về giới tính trong văn học Việt Nam đương đại sau đó có thêm Không lạc loài của Phạm Thành Trung, Lê Anh Hoài chấp bút, Đời callboy của Nguyễn Ngọc Thạch,…. Cuốn sách xuất hiện khi hình ảnh người đồng tính không còn là một cái gì quá xa lạ trên truyền thông đại chúng, nhưng đồng thời hình ảnh ấy cũng thường được lặp lại theo những công thức nhất định, tạo thành những định kiến phổ biến. Trên sâu khấu hài kịch, sự gây cười bởi độ lệch tông được cường điệu trong phương thức biểu hành giới tính dẫn đến sự đóng đinh hình dung về người đồng tính gay tức là ẻo lả, ngoa ngoắt, điệu đà,… Ở điện ảnh và phim truyền hình, người đồng tính muốn được thừa nhận như một giá trị phải sở hữu những thứ quyền lực khác để có thể thao túng kẻ khác thường đó phải là nhân vật sống ở môi trường đô thị, có tiền, có quyền, có tài, có thân thể đẹp, thích gây chú ý,… Trên truyền thông báo chí, người đồng tính gắn liền với những gì thái quá. Chỉ cần đọc nhanh những mẩu tin về các vụ án liên quan đến người đồng tính, ta dễ nhận thấy một cấu trúc tu từ phổ biến, theo đó, đồng tính thường có những cảm xúc tâm lý thái quá, gắn liền những dục vọng mãnh liệt về nhục cảm và bởi thế, đồng tính thường dễ mù quáng, quá khích, dã man. Những bản án dành cho người đồng tính, do vậy, thường ở khung hình phạt rất nặng. Chỉ cần gõ hai từ khóa “đồng tính” và “tử hình” đi đôi với nhau lên Google, kết quả sẽ cho ta một con số đáng suy nghĩ. Phần lớn các vụ án này, theo tường thuật của báo chí, thường xuất phát từ những động cơ tiền bạc và tình dục quá khích, dẫn đến chỗ các án mạng được mô tả theo chiều hướng tăng cấp sự man rợ. Hiện tượng này cũng nên được xem xét như một nguyên nhân dẫn đến sự dai dẳng của tâm lýhomophobia trong xã hội Việt Nam đương đại. Giữa những diễn ngôn phổ biến như vậy về người đồng tính trong văn hóa đại chúng, một tự thuật như Bóng thực sự có ý nghĩa xã hội đáng ghi nhận. Mục đích của cuốn tự thuật, như Nguyễn Văn Dũng tâm sự, là muốn đem đến một nhận thức đúng hơn về người đồng tính đồng tính không phải là một tình trạng bệnh hoạn, không phải một sự lạc loài đáng xấu hổ và buộc phải che đậy cả đời. Một trong những nội dung quan trọng của cuốn sách là việc mô tả quá trình tự ý thức về giới tính của Dũng. Có lẽ đây chính là điều làm Dũng cảm thấy hơi tiếc vì anh không thể trực tiếp dùng lời văn để kể lại đời mình, đặc biệt là diễn biến tâm lý của chính anh. Nhưng câu chuyện của Dũng, ở chừng mực nào đó, có thể làm trực quan cho những luận điểm không dễ nắm bắt của thuyết biểu hành giới tính. Cái gọi là “đàn ông”, “nam tính” trên thực tế là một bảng phân vai gắn liền với những việc phải làm là đàn ông, anh phải đảm nhiệm vai của đứa con trai độc nhất trong nhà, phải có nghĩa vụ kết hôn, có con để nối dõi tông đường; khi đi học, để hòa nhập với đám con trai, anh phải biết chơi những trò được mặc định là dành cho con trai, làm những công việc mà thầy giáo bảo là “việc của đàn ông”; trong một xã hội mà vấn đề an ninh quốc phòng luôn được đề cao, đến mức quốc phòng còn trở thành môn học trong trường phổ thông, làm đàn ông nghĩa là còn phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt, “đàn ông”, như một tính từ thể hiện đẳng cấp, phải được thể hiện qua khả năng chinh phục đàn bà. Chính ở câu chuyện về mối quan hệ giữa Dũng với hai nhân vật nữ tên Hoa và Hương trong cuốn sách, ta có thể thấy được tính chất bạo lực trong diễn ngôn hàng ngày về “đàn ông”, “nam tính”, trong đó, đàn bà được xem như một thứ “vật” mà đàn ông cần phải chiếm đoạt và phô trương để khẳng định đẳng cấp của mình, để được thừa nhận là đàn ông đích thực. Song bên cạnh đó, thì chính mối quan hệ dị giới này thực chất cũng chỉ là hình thức chuyển vị những dục cảm đồng giới, như Dũng thú nhận “Đêm đó, lần đầu tiên trong đời, tôi biết đến cơ thể phụ nữ. Tôi vẫn nhớ cảm giác của mình lúc đó cảm xúc không trọn vẹn, càng về sau tôi mới càng nhận ra rằng sự tò mò nhiều hơn sự ham muốn… Lần ấy đối với tôi thực chỉ là một cách để tôi sĩ diện đem “chiến công” về khoe với những thằng con trai khác, cũng là cách để tôi che giấu cảm giác thèm muốn nam giới của mình”; “Dù vậy, có vẫn hơn không, bởi thâm tâm tôi muốn sở hữu Hương để tự khẳng định mình trước lũ bạn. Như một cách tự khẳng định rằng dứt khoát tôi là một thằng đàn ông…”18 Trong một xã hội dường như sự thành thực, trước hết là thành thực với chính mình, dường như đang khan hiếm thì tự thú của Nguyễn Văn Dũng, hay bất cứ người đồng tính nào qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đều có ý nghĩa tích cực nó thể hiện sự can đảm của những người dám sống là chính mình. Tuy nhiên, tự thuật Bóng, thẳng thắn để nhận xét, vẫn không thoát khỏi hệ quy chiếu lấy đàn ông, lấy người dị giới làm trung tâm. Điểm nhìn của cuốn sách, ngay từ chương đầu tiên, đã xác định là điểm nhìn của nạn nhân. Sẽ là bất nhẫn nếu phê bình điều này vì đó là thực tế những gì Dũng và những người đồng tính nếm trải. Nhưng điều quan trọng là nhãn quan nạn nhân ấy mang một màu sắc định mệnh xuyên suốt cuốn tự thuật là ám ảnh của nhân vật tình trạng không có tương lai và sự bất hạnh mà nhân vật coi như số phận của mình cũng là bất hạnh được chiếu từ điểm nhìn của người dị giới, xem cuộc sống được coi là bình thường của người dị giới như là khuôn mẫu của hạnh phúc. Bản thân cuốn tự thuật cũng được kết cấu như một lộ trình mà nhân vật cùng những người đồng tính như anh cố gắng để được xã hội công nhận giá trị. Và giá trị đó là giá trị mà những người dị giới tạo ra “Là người đồng tính nhưng chúng cháu vẫn thực hiện đủ nghĩa vụ của công dân với đất nước. Bản thân cháu đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Rồi chúng cháu cũng vẫn phải làm những công việc nặng nhọc mà xã hội chỉ định cho nam giới…”19 Tự thú đồng tính của Nguyễn Văn Dũng, dù rất ý nghĩa và đáng trân trọng, vẫn là một tự thú nhiều mặc cảm. Và nhìn rộng ra, mặc cảm ấy là điều dễ bắt gặp, dễ phát hiện trong văn chương đồng tính Việt Nam. Dòng văn chương ấy cần thêm sự táo bạo để khiêu khích, để chất vấn các ý niệm bản chất luận về giới tính khiêu khích, chất vấn không phải nhằm đến sự độc tôn theo chiều hướng ngược lại mà để mở ra quan hệ mới, bình đẳng hơn, tôn trọng nhau hơn giữa các chủ thể trong xã hội. Văn học đồng tính ở Việt Nam – Hướng tới một dòng văn học thiểu số Từ chỗ phải kiếm tìm những hình thức ngụy trang để che giấu chình mình đến chỗ tự xác nhận giới tính của mình, chứng minh sự thiểu số của mình cũng bình thường như mọi sự bình thường khác trong đời sống, từ chỗ bị ấn định bởi sự mô tả của kẻ khác vốn nắm giữ quyền lực của bộ phận đa số đến chỗ nỗ lực tìm cách để biểu hiện chính mình, dù còn rất loay hoay, văn học đồng tính ở Việt Nam, nhìn trên bề mặt, đã tiến được một chặng đường đáng kể. Tuy chưa có điều kiện khảo sát kỹ nhưng chúng tôi cho rằng về số lượng, các tác phẩm văn học được xếp vào dòng “queer” hiện nay khá phong phú. Thậm chí đã bắt đầu có những tác giả thực sự bắt đầu đi sâu vào mảng đề tài đồng tính như Bùi Anh Tấn, Vũ Đình Giang,… Có những cuốn sách thật sự ăn khách, gây được sự chú ý của công chúng. Song văn học đồng tính cũng sẽ bế tắc, cạn kiệt nếu như nó chỉ đối xử với đề tài đồng tính như một đề tài ăn khách, chứa yếu tố gây tò mò đến mức thể hiện ngay điều này ở tên tác phẩm như Lạc giới, Điếm trai,… Văn học đồng tính sẽ bất nhẫn với chính đối tượng đặc thù của mình nếu như nó chỉ muốn kể những câu chuyện cảm thương hay bông lơn để chiều chuộng độc giả, trong đó có rất nhiều người chỉ muốn nhìn người đồng tính như những kẻ yếu đuối, cô độc, yếm thế hoặc như những kẻ thái quá, gây cười, gây lố. Văn học đồng tính ở Việt Nam hiện nay, bất chấp diện mạo có vẻ phong phú, lại dễ gây định kiến về tính chất “ghetto” của nó đó là dòng văn học của/về một cộng đồng thiểu số. Nhưng nhận xét trên dường như mâu thuẫn với chính cách đặt vấn đề ở phần này của bài viết. Ý niệm “thiểu số” ở đây được chúng tôi tiếp thu từ Gilles Deleuze và Félix Guattari trong công trình nghiên cứu của hai ông về văn chương của Franz Kafka Kafka – vì một nền văn học thiểu số. Theo đó, văn chương thiểu số không đồng nhất với văn chương của một cộng đồng thiểu số hay được viết bằng một thứ ngôn ngữ thiểu số. Đó là thứ văn chương nằm ngoài dòng chính, nó luôn ở trong quá trình trở thành khác, nó chối từ sự đóng đinh vào những quy phạm mặc định, những định nghĩa hoàn tất, nó làm lung lay độ rắn chắc của những đối lập nhị phân trong ý thức văn hóa, nó làm phát huy sự phong phú, dị biệt vốn có trong ngôn ngữ. Văn chương thiểu số, như thế, rõ ràng là một thứ văn chương “queer”, nếu ta nhớ rằng từ “queer” trong tiếng Anh vốn có nghĩa gốc là sự lệch chuẩn, lệch pha so với những chuẩn mực được kỳ vọng, mong đợi. Thứ văn chương thiểu số ấy, theo Deleuze và Guattari, là thứ văn chương của tương lai. Viết, với Gilles Deleuze, là sự trở thành khác becoming other, là sự khai thông những khả thể khác của sự sống20. Khi viết, người ta trở thành đàn ông, đàn bà nhưng không phải như là những hình mẫu đã mặc định, mà là những đàn-ông-khác, đàn-bà-khác. Suy diễn mệnh đề này của Deleuze, quá trình viết cũng rất có thể là quá trình trở thành “queer” của chủ thể viết. “Queer”, lúc này không còn là một cái gì nhược tiểu, mặc cảm nữa quá trình “queer” hóa giải cấu trúc độ rắn, tính xác định của những ý niệm sẵn có về giới, giải phóng áp lực về giới lên sự viết, lên ngôn ngữ, và rộng hơn, là giải phóng áp lực của các chuẩn mực, các quy phạm, cho phép con người thể nghiệm những gì bên ngoài khuôn khổ thông thường. “Queer” hóa sự viết cũng chính là cách để hình thành chủ thể tự do, những cách biểu đạt tự do. Trở lại với trường hợp văn chương của các “nhà nho lại cái” thế kỷ XVIII. Khi nhập vào vai nữ để giãi bày, tự sự nỗi lòng của mình, họ đã thể nghiệm việc trở thành phụ nữ. Nhưng không phải là phụ nữ theo ý niệm chính thống của Nho giáo mà là một mẫu phụ nữ khác táo bạo, quyết liệt, cá nhân. Điều này cũng gắn với việc họ tìm kiếm những khả năng biểu đạt mới cho thơ Nôm, biến thơ Nôm thành không gian cho phép cất lời những điều mà thơ chữ Hán vốn không sẵn chữ để biểu đạt, biến thơ Nôm thành một thứ “văn học thiểu số” theo đúng nghĩa mà Deleuze giới thuyết. Thơ Nôm bị “queer” hóa, nói theo chữ chúng ta đang dùng, cũng có nghĩa là nó trở nên khoáng đạt hơn, gợi cảm hơn, sắc dục hơn. Và khi các nhà nho “queer” hóa chính họ thì đồng thời sáng tạo của họ cũng tạo ra những kẽ hở để giải tỏa áp lực, định kiến đối với chính bản thân phụ nữ. Xuân Diệu sau này cũng đã “queer” hóa tiếng Việt, tạo ra một lớp ngôn ngữ uyển chuyển, vừa giúp ông bộc lộ dục cảm đồng giới, vừa khéo léo che đậy chứ không vùi dập chúng, nhất là ở thời kỳ nói như Chế Lan Viên Khi đứng riêng tư ta thấy mình xấu hổ. Văn học đồng tính ở Việt Nam đến lúc này thực sự chúng tôi muốn gọi nó là văn học “queer” hơn có lẽ cũng đến lúc phải tự giải phóng những giới hạn của mình. “Queer” không chỉ là một đề tài, một đối tượng ngoại biên cần được nhận thức, mô tả – điều này, tất nhiên, vẫn rất cần thiết trong bối cảnh Việt Nam. Nhưng hoàn toàn có thể đặt vấn đề khác “queer” như một cái nhìn, một lập trường, một thế giới quan không ngừng “tra vấn bất cứ những cái bình thường hay chuẩn mực được mặc định, vốn dĩ không có quyền lực nội tại nào”21. Một thế giới quan như thế thực chất có không ít ưu thế, nó cho phép con người có nhiều lựa chọn hơn. Điều đó cũng có nghĩa là ta tự trao cho ta nhiều tự do hơn. Để sống. Và để sáng tạo. Cũng đã có thể nhận ra một số tác phẩm thể nghiệm một tinh thần “queer” như thế trong văn học Việt Nam đương đại, dẫu chưa thật nhiều. Chúng tôi nghĩ đến trường hợp của Nguyễn Thúy Hằng. Không cần dùng văn chương để ngụy trang dục cảm, cũng không phải viết để tự thú, biện hộ cho mình, Hằng viết bằng một thứ ngôn ngữ có xu hướng trở nên trung tính hóa, trở nên phi trữ tình, phi xác định về thể loại một thứ văn chương hóa lỏng. Ở đó, Hằng, nhân vật của Hằng lãnh đạm và tự tại quan sát mình, quan sát thế giới để thấy tất cả không là một cái gì định hình, rắn chắc. Tất cả đều chỉ là một thứ “bột hư ảo”. Rất đỗi mong manh, rất dễ tan rã nằm giữa một bầy xin lỗi và tái nhợt nằm giữa loại áo choàng phụ nữ cái giường đơn tôi và người phụ nữ ấy bay lên không trung. chạm vào trần nhà, tôi mắc kẹt trên ấy – tôi bị đuổi khỏi chỗ tôi nằm. tôi trở thành trần nhà. người phụ nữ là loài thạch sùng bò lạnh ngắt trên da họ bám vào tôi, ngủ mơ, dai, thật dai… dưới lá ẩm phủ phục chúng tôi nằm hôn nhau lâu rất lâu thân thể lúc ấy mối mọt lúc ấy mủ mục lúc ấy cơn dông từ xa đột ngột trở xám rừng rậm già đi cả rừng rậm mọc thật dày cánh tay khẳng khiu rồi đây chúng tôi chỉ là nhúm bột hư ảo mà thôi22 Không khắc khoải yếm thế về tương lai, Nguyễn Thúy Hằng chỉ lặng nhìn từng khoảnh hiện tại li ti, vụn vỡ, mong manh. Tác phẩm của Hằng nghiệm sinh cái mong manh đó với một tâm thế hiện sinh nhẹ nhõm. Cũng như Xuân Diệu trước kia đã nhìn thấy ở mối tình trai giữa Rimbaud và Verlaine một thái độ hiện sinh bất cần “Không cần mặc cả họ yêu nhau”. Và tinh thần hiện sinh ấy cũng là điều toát lên từ các diễn ngôn lý thuyết đồng tính. Khi Jeffrey Nealon và Susan Searls Giroux khái quát về lý thuyết “queer” bằng luận điểm “Sự thật, thậm chí ngay cả sự thật về giới tính, phụ thuộc vào các hành động, hành vi hơn là ngược lại. Bạn là ai là hệ quả của việc bạn làm gì”23, ta không khỏi nhớ đến mệnh đề nổi tiếng của Jean-Paul Sartre rằng không có bản chất nào có trước hiện hữu. Ý thức hiện sinh ấy, thiết nghĩ, rất cần cho sự giải phóng của văn học đồng tính ở Việt Nam khỏi chính những giới hạn mà nó đang tạo ra và quẩn quanh trong đó. __________________ 1 Cristopher Isherwood Người cô độc, Trần Nguyên dịch, Youth Book & NXB Hội Nhà văn, H., 2012, 2 Tony Purvis “Sexualities”, in Patricia Waugh ed. Literary Theory and Criticism An Oxford Guide, Oxford University Press, 2006, 3 Tony Purvis “Sexualities”, Sđd, 4 Jefrey Nealon, Susan Searls Giroux “Queer”, in The Theory Toolbox Critical Concepts for the Humanities, Arts & Social Sciences, Rowman & Littlefield Publishers, 2003, 5 Jeffrey Nealon, Susan Searls Giroux “Queer”, 6 Tạ Chí Đại Trường Sử Việt đọc vài quyển, Nxb. Văn mới, California, Chúng tôi trích theo bản PDF tại địa chỉ 7 Tạ Chí Đại Trường Sử Việt đọc vài quyển, Sđd, 8 Nguyễn Thanh Tùng, “Hiện tượng biến đổi giới trong văn học trung đại – Một vài nhận xét”, Nguồn 9 Ngô Sĩ Liên Đại Việt sử ký toàn thư, Đào Duy Anh dịch, Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây & NXB Hồng Bàng, 2012, Có lẽ sự lệch chuẩn mang màu sắc “queer” của hình tượng Bà Triệu qua cách tái hiện của sáchGiao Chỉ ký đã hình thành nên định kiến của các sử gia sau này khi bình luận về nhân vật này. Chỉ cần so sánh với cách sử gia phong kiến đánh giá về Bà Trưng, người được xem là dấy quân khởi nghĩa chống lại nhà Hán để vừa trả nợ nước vừa báo thù nhà, ta có thể thấy rõ định kiến đó. Ngô Thì Sĩ trong sách Đại Việt sử ký tục biên đã bình luận “Chỉ vì chồng mà căm phẫn, em vì chị mà cố gắng, tiết phụ nghĩa nữ ở cả trong một nhà, đó mới là lạ… Từ khi bà Nữ Oa luyện đá vá trời về sau, chỉ có chị em nhà họ Trưng mà thôi. Còn tẹp nhẹp như Triệu Ẩu, Trần Thạc Trinh thì kể làm gì đời Đường Cao Tông, con gái châu mục là Trần Thạc Trinh làm phản, tự xưng là Văn Giai hoàng đế” Ngô Thì Sĩ Đại Việt sử ký tục biên, Trung tâm Văn hóa – Ngôn ngữ Đông Tây & NXB Hồng Bàng, 2012, 10 Lê Quý Đôn Đại Việt thông sử, Ngô Thế Long dịch, NXB Trẻ & NXB Hồng Bàng, 2012, 11 Tạ Chí Đại Trường Sử Việt đọc vài quyển, Sđd, 12 Xin xem Nguyễn Quốc Vinh “Những nhục thể biến dị và các động thái chuyển vị của dục cảm đồng tính trong văn chương Việt Nam từ và về thời Pháp thuộc 1858-1954, tại địa chỉ Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, trong Bút pháp của ham muốn, NXB Tri thức, H., 2009. 13 Xem thêmNguyễn Quốc Vinh “Những nhục thể biến dị và các động thái chuyển vị…”, Bđd; Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, Sđd. 14 Xuân Diệu Tuyển tập Tập II, NXB Văn học, 1987, 15 Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, Sđd, 231, 249. 16 Tô Hoài Cát bụi chân ai, NXB Hội Nhà văn, H., 2000. 17 Dẫn theo Đỗ Lai Thúy “Đáp lời con quái Sphinx hay ngọn nguồn sáng tạo thơ Xuân Diệu”, Sđd, 18 Đoan Trang, Hoàng Nguyên Bóng – tự truyện của một người đồng tính, NXB Văn học, 2008 Tuy nội dung của nó là tự truyện của Nguyễn Văn Dũng nhưng bìa sách lại ghi tên tác giả là Đoan Trang và Hoàng Nguyên. 19 Đoan Trang, Hoàng Nguyên Bóng…, Sđd. 20 Gilles Deleuze, “Literature and Life”, bản dịch tiếng Anh của Daniel W. Smith và Michael A. Greco, in trongCritical Inquiry, Winter, 1997, trang 225-230. Có thể đọc bản dịch sang tiếng Việt của Hải Ngọc tại địa chỉ 21 Claire Colebrook “On the Very Possibility of Queer Theory”, in Chrysanthi Nigianni và Merl Storr ed. Deleuze and Queer Theory, Edinburg University Press, 2009, 22 Nguyễn Thúy Hằng Họ – Bột hư ảo, Nhã Nam & NXB Văn học, 2012. 23 Jefrey Nealon, Susan Searls Giroux “Queer”, Sđd, Nguồn Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2014
Ngày đăng 03/04/2013, 1833 DÀN Ý BÀI TIỂU LUẬN Nội dung Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ. 2 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 2 1. Định nghĩa về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng giới. 2 2. Số liệu thống kê tỷ lệ người đồng tính. 3 Việt Nam. 3 Thế giới. 4 3. Pháp luật và dư luận Việt Nam về vấn đề này. 4 Pháp luật Việt Nam hiện hành. 4 Quan điểm của dư luận xã hội. 5 Quan điểm từ những người nghiên cứu. 5 4. Các luận điểm về việc không tán thành sự cần thiết phải ghi nhận kết hôn đồng giới trong Luật hôn nhân và gia đình. 6 Cái nhìn từ góc độ chính trị, nhân quyền. 6 Cái nhìn từ góc độ xã hội. 6 Cái nhìn từ góc độ tâm lý học. 7 Cái nhìn từ góc độ tôn giáo – truyền thống. 7 Cái nhìn từ góc độ y học. 9 5. Pháp luật của những quốc gia và dư luận xã hội trên thế giới chưa tán thành kết hôn đồng giới. 10 C. KẾT LUẬN VẤN ĐỀ. 11 1 D. DANH MỤC TƯ LIỆU THAM KHẢO. 12 A. ĐẶT VẤN ĐỀ. Hôn nhân đồng giới đang là một vấn đề được tranh luận rất sôi nổi trên thế giới hiện nay. Hiện tại, tính đến thời điểm này, có hơn 10 quốc gia trên thế giới đã công nhận kết hôn đồng giới trong Luật Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Canada, Nam Phi, Na Uy, Thuỵ Điển, Bồ Đào Nha, Iceland, Argentina. Ngoài 10 nước đã liệt kê trên còn có năm tiểu bang ở Hoa Kỳ Massachusetts, Iowa, Connecticut, Vermont, New Hampshire, thủ đô Washington cùng với thủ đô Mexico Thành phố Mexico cũng cho phép hôn nhân đồng giới. Tại thời điểm này ở Việt Nam, các nhà làm luật, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội, bác sĩ, luật sư… đang lên tiếng tranh luận và đưa ra những ý kiến để ủng hộ việc công nhận kết hôn đồng giới trong Luật hôn nhân và gia đình. Nhưng liệu việc quá vội vàng công nhận việc kết hôn đồng giới đã là một giải pháp an toàn và tốt nhất cho vấn đề tại thời điểm hiện tại hay chưa? Theo quan điểm của tôi, thì chúng ta không nên vội vàng công nhận kết hôn đồng giới trong Luật. Chúng ta nên xem xét và nghiên cứu vấn đề hôn nhân đồng giới một cách tổng thể, dưới nhiều góc độ khác nhau rồi mới quyết định công nhận hôn nhân đồng giới ở một thời điểm thích hợp trong tương lai xa. Việt công nhận kết hôn đồng giới trong Luật vội vàng sẽ khiến chúng ta không thể lường trước được những hậu quả phát sinh và kéo theo của nó, cũng như những tác động tiêu cực mà nó mang lại cho các thế hệ tương lai. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 2 1. Định nghĩa về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng giới. - Đồng tính luyến ái được nói một cách khiếm nhã là Pê-đê từ tiếng Pháp pédé, hay Gay từ tiếng Anh, thường dùng cho phái nam và Lesbian dùng cho phái nữ, là việc yêu đương hay mối quan hệ tình dục giữa những người đồng giới tính với nhau. Khái niệm này khác với khái niệm ái nam ái nữ, bán nam bán nữ, hay giới tính thứ ba. Đồng tính luyến ái không phải là một giới tính, mà là một trong những thiên hướng tính dục sexual orientation. - Hôn nhân đồng giới là cuộc hôn nhân của hai người có cùng giới tính sinh học. Qua các nghiên cứu, nhiều nhà khoa học đã chứng minh, xu hướng tình dục đồng tính đã tồn tại hàng ngàn năm nay như một điều hiển nhiên không thể khác. Đồng tính là xu hướng tình dục, xu hướng tình yêu, bị chi phối bởi tâm lý và cấu tạo sinh lý của cơ thể con người mà họ không thể lựa chọn khác được, chứ không đơn giản là sự lệch lạc về tâm lý, là sự học đòi, sự a dua. Người đồng tính cũng như những người bình thường khác về mặt thể chất, tinh thần, chỉ khác về xu hướng tình dục. Nhiều nhà khoa học cũng cho rằng, thực tế không phải chỉ có hai giới như chúng ta vẫn thường biết, mà là ba giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận ngoài những người đồng tính “tự nhiên”, còn có không ít trường hợp đồng tính do sự lệch lạc về quan hệ tình dục. Đó là những bạn trẻ có cuộc sống ăn chơi trác táng và có những quan niệm lệch lạc về tình dục đồng giới do ảnh hưởng văn hoá phẩm phẩm đồi trụy, không lành mạnh. Đây được xem như là một tệ nạn của xã hội. Vậy, pháp luật có nên thừa nhận hôn nhân đồng tính là hôn nhân hợp pháp? Nếu thừa nhận, chúng ta sẽ 3 phải sửa đổi một loạt các qui định hiện hành như Bộ luật dân sự, Luật Hôn nhân gia đình… để điều chỉnh hàng loạt vấn đề kéo theo quan hệ “hôn nhân” này như con cái con nuôi, hoặc con đẻ của một người nếu cặp đôi đồng tính là nữ, tài sản, quyền và nghĩa vụ “vợ, chồng”, thừa kế… Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học vào năm 1973, năm 1975 Hiệp Hội Các Nhà Tâm Lý Học Hoa Kỳ cũng đã loại khỏi danh sách tâm bệnh những suy nghĩ và hành động đồng tính. Tóm lại từ sau năm 1975 cả tâm thần học và tâm lý học không còn xếp quan niệm và hành động đồng tính trong danh sách những hội chứng tâm bệnh hay tâm lý nữa. Sau cùng năm 1990, Cơ Quan Y Tế Thế Giới cũng công nhận rằng đồng tính không phải là “bệnh”. Và gần đây nhất năm 2001, Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học Trung Hoa cũng đã loại bỏ đồng tính khỏi danh sách tâm bệnh. 2. Số liệu thống kê tỷ lệ người đồng tính. Việt Nam. - Một cuộc thăm dò của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 tiến hành trên 300 học sinh của ba trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 42% học sinh cho rằng 1% học sinh trong trường mình là đồng tính, 2% học sinh cho rằng tỉ lệ này là 5%, 8% học sinh cho rằng 10%, còn 25% học sinh còn lại cho rằng nhiều hơn nữa. - Các tổ chức khác nhau đưa ra dự đoán hoặc ước tính số người đồng tính khác nhau. Theo một báo cáo được công bố tại hội nghị khoa học kỹ thuật do Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 26/9/2006, chưa có những số liệu chắc chắn về số lượng đồng tính nam ở Việt Nam. Tuy vậy, theo một nghiên cứu của bác sĩ Trần Bồng Sơn, số đồng tính nam ước tính là khoảng 4 người. Nhưng theo một nghiên cứu khác do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện tại Việt Nam, con số này lại vào khoảng người. 1 - Việc thống kê một cách đầy đủ và rộng khắp để đưa ra những số liệu đúng đắn về người đồng tính ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách đối với người đồng tính cũng như tác động đối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, việc thống kê này có nhiều khó khăn như sự khác nhau trong định nghĩa đồng tính luyến ái, sự không công khai của người đồng tính và sự không quan tâm đầy đủ của chính quyền và xã hội. Thế giới. Tỉ lệ người hoàn toàn đồng tính trong dân chúng trên thế giới là từ > 1% đến 10%, đồng tính nam nhiều hơn đồng tính nữ. Các số liệu thay đổi tùy quốc gia. Một nghiên cứu 1992 cho thấy nam giới ở Vương quốc Anh từng có quan hệ đồng tính, trong khi ở Pháp là Theo một thống kê 2003, 12% người Na Uy từng quan hệ tình dục đồng giới. Trong một cuộc thăm dò 2008, trong khi chỉ có 6% người Anh tự nhận là đồng tính hoặc song tính, 13% người Anh đã từng quan hệ tình dục với người cùng giới. Ở Mỹ, cuộc thăm dò ngày 4 tháng 11 năm 2008 trong cuộc bầu cử Tổng thống cho thấy tỉ lệ người tự nhận là đồng tính hoặc song tính là 4%. 2 3. Pháp luật và dư luận Việt Nam về vấn đề này. Pháp luật Việt Nam hiện hành. 1 Số liệu từ Viện Nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường web 2 Số liệu từ 5 - Theo Khoản 2, Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 quy định "Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". - Khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 còn quy định "nghiêm cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính". Do đó, khi những cặp đồng tính tổ chức đám cưới và chung sống với nhau như vợ chồng là vi phạm pháp luật Việt Nam. Quan điểm của dư luận xã hội. Cuối năm 2010, cư dân mạng từng “sốt xình xịch” vì đám cưới của hai cô gái trẻ. Và vài ngày nay, người ta lại bàn luận không ngớt trước sự kiện nhiều trang mạng đưa tin đám cưới đồng tính công khai thứ hai ở Việt Nam. Lần này “cô dâu, chú rể” cùng là nam! Nhiều tờ báo đưa tin đám cưới của cặp đôi này được tổ chức hoành tráng tại tòa nhà sự kiện Forever đường Nguyễn Thông, TP HCM. Hàng loạt các bức ảnh được đăng tải cho thấy, hai “nhân vật chính” trông rạng ngời hạnh phúc và thỉnh thoảng lại dành cho nhau những cử chỉ âu yếm, thân mật. Đám cưới cũng được bắt đầu với màn cắt bánh gato, rót rượu… khá trang trọng. Có thể nói, dưới con mắt của phần lớn người Việt Nam, nhất là những người lớn tuổi, hôn nhân đồng giới là sự “kỳ dị”, không bình thường và khó chấp nhận. Đám cưới này dù được cả gia đình hai bên ủng hộ, dù “xuất phát từ tình yêu chân thành” của “cô dâu”, “chú rể”, nhưng vẫn là hành động “không bình thường”, khác với phong tục tập quán lâu nay. Đấy là chưa nói đến khía cạnh pháp luật, kết hôn đồng giới chưa được thừa nhận và hai “cặp đôi” này chưa được pháp luật Việt Nam công nhận là vợ chồng, vì họ không thể đăng ký kết hôn. 6 Nhưng, bên cạnh đó, lại có khá nhiều ý kiến, nhất là giới trẻ, bày tỏ sự cảm thông, kể cả thán phục và ngưỡng mộ, cho đây là hành động “dũng cảm”, dám công khai sống thật với giới tính của hai cặp đôi trên và cho rằng, xã hội phải có cái nhìn thay đổi cho phù hợp với thực tế. Những người đấu tranh vì hôn nhân đồng tính cũng khẳng định, các cặp đôi đồng tính có một đời sống vô cùng bình thường. “Đời sống vợ chồng” của họ không gây ảnh hưởng gì đến xã hội. Nếu cấm họ kết hôn với nhau, nghĩa là đã vô tình làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Quan điểm từ những người nghiên cứu. Trong bài trả lời phỏng vấn một tờ báo, Nguyễn Minh Thuyết 3 cho rằng, những người đồng tính nam và đồng tính nữ, họ là giới thứ ba, xã hội buộc phải thừa nhận. GS Thuyết cũng đưa ra quan điểm Những người đồng tính đi tới chung sống với nhau là “chuyện mà pháp luật nên thừa nhận và sớm thừa nhận để có những ràng buộc về mặt pháp lý,đảm bảo quyền lợi cho những đôi bạn trẻ cũng như tất cả những người xung quanh”. Luật sư Trịnh Anh Dũng – Trưởng Văn phòng luật sư Trịnh, Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng “Vấn đề hôn nhân đồng giới là một vấn đề tương đối nhạy cảm, từ trước đến nay, cả trên thế giới và tại Việt Nam đều có nhiều luồng quan điểm khác nhau và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau như đạo đức, tôn giáo, pháp luật, y học… Dưới góc độ pháp luật, tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam đã qui định tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa và gia đình. Đối chiếu với các quy định và tinh thần của pháp luật nêu trên, tôi cho rằng, quyền yêu và được yêu, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng về xã hội và gia đình của người đồng giới cần được pháp luật tôn trọng và bảo vệ”. 3 Đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa XI, XII của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn. 7 4. Các luận điểm về việc không tán thành sự cần thiết phải ghi nhận kết hôn đồng giới trong Luật hôn nhân và gia đình. Cái nhìn góc độ chính trị, nhân quyền. Những trường phái ủng hộ việc kết hôn đồng giới, họ đều có xu hướng đưa quan điểm nhân quyền ra để lập luận “Con người sinh ra đều có quyền bình đẳng như nhau, đều có quyền mưu cầu hạnh phúc”. Họ dựa vào nhân quyền để cho rằng những người đồng tính luyến ái cũng phải được có quyền được kết đôi với những người như mình và được xã hội, nhà nước và pháp luật chấp nhận. Nhưng nhân quyền cũng cần phải được đặt trong tổng thể các lợi ích của xã hội, các mối quan hệ và lợi ích của các thệ hệ tương lai. Nhưng những quan điểm như thế là chưa đủ sức thuyết phục, việc chấp nhận kết hôn đồng giới là một vấn đề rất quan trọng và nhạy cảm, điều này liên quan không chỉ đối với những chủ thể được hưởng quyền đó, mà còn có tác động to lớn đến các xu hướng trong xã hội và các thệ hệ tương lai của nhân loại. Nếu chúng ta chấp nhận hôn nhân đồng giới một cách vội vã, liệu điều đó có tốt ko? Chúng ta không nên làm như vậy, mà hãy nên xem xét và đưa ra những kế hoạch, chính sách phù hợp đối với những nhóm người đồng tính trong xã hội trước. Điều này sẽ tạo tiền đề để dư luận xã hội có cái nhìn cởi mở hơn về vấn đề này. Cái nhìn từ góc độ xã hội. Nếu chấp nhận hôn nhân đồng giới, thì chúng ta sẽ phải định nghĩa lại hôn nhân là gì? Mục đích của hôn nhân? chức năng của hôn nhân? Gia đình đồng giới sẽ được hiểu như thế nào? Ai là vợ, ai là chồng? Nhưng nếu những cuộc hôn nhân đồng giới chỉ giới hạn trong thiểu số của xã hội, thì sẽ không phải là vấn đề quá lớn để chúng ta phải lo lắng. Nhưng việc chấp nhận hôn nhân đồng giới quá vội vàng khi mà chúng ta chưa có những chính 8 sách, kế hoạch phù hợp, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến xã hội. Xu hướng những cặp đồng tính trong xã hội đang ngày một tăng có thể do lý do sinh lý, xã hội, tâm lý, trào lưu… thì việc chấp nhận hôn nhân đồng giới một cách vội vã sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực các thế hệ tương lai sẽ ra sao, những đứa con trưởng thành trong những gia đình phụ huynh đồng tính sẽ bị ảnh hưởng thế nào, xu hướng xã hội về vấn đề này sẽ tiến triển đến đâu… Cái nhìn từ góc độ tâm lý học. - Nguy cơ "hôn nhân" không bền vững là lớn. Xã hội nên có những cái nhìn thẳng thắn; nếu là trào lưu thì nên định hướng, đừng a dua theo. Với những người thực sự bị đồng tính thì họ cũng có những khó khăn riêng của mình, khó hoà nhập với cuộc sống chung của cộng đồng. Khó khăn lớn nhất mà các cặp đôi đồng tính phải đối mặt là dư luận. Nếu họ biết cách hạn chế dư luận thì sẽ giữ được tình yêu bền lâu và đỡ căng thẳng, vì hôn nhân của những cặp đôi này là không vững, họ không có những ràng buộc giống như những cặp đôi bình thường khác. - Những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý của những đứa con trong gia đình đồng tính. Những đứa trẻ lớn lên trong một gia đình có cha và mẹ là đều là đồng giới, liệu tâm lý của chúng có phát triển bình thường và tích cực như những đứa trẻ lớn lên trong một gia đình bình thường không? Có rất nhiều những nghiên cứu hiện nay trên thế giới về vấn đề này, nhưng chúng ta vẫn chưa thể kết luận chính xác. Vì vậy, thay vì vội vã công nhận hôn nhân đồng giới, thì chúng ta nên có những nghiên cứu về mọi mặt đối với một mô hình hôn nhân đồng giới, rồi mới trả lời rằng chấp nhận hay không chấp nhận. Cái nhìn từ góc độ tôn giáo – truyền thống. 9 “Chúng tôi mạnh mẽ khẳng định rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ…” Đó là lời tuyên bố mạnh mẽ của Đức Tổng Giám Mục Dolan 4 nhằm phản đối quyết định hợp pháp hôn nhân đồng tính của Tiểu Bang New York. Thánh Kinh đã ghi lại, ngay từ thuở xa xưa khi mới tạo dựng đất trời, Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam và có nữ Adam và Eva Ngài đã tác thành cho họ để trở nên vợ chồng, và xây dựng một khung hình sinh hoạt mang tính cộng đồng đầu tiên của nhân loại. Cấu trúc của gia đình, theo đó, là sự kết hợp chặt chẽ và vững bền giữa một người nam và một người nữ. Sự kết hợp này phản ảnh xã hội tính, giới tính, nhu cầu tâm sinh lý, và nhu cầu bảo tồn nòi giống. Từ mô hình này, vai trò làm chồng, vai trò làm vợ, vai trò làm cha, vai trò làm mẹ, vai trò làm con, làm anh, chị, em… được thành hình và truyền thụ cho đến ngày nay. Nó cũng là bước khởi đầu cho một mô hình xã hội phát xuất từ hôn nhân giữa người nam và người nữ. Ý niệm về hôn nhân và gia đình đã vươn rộng đưa đến mô hình đại gia đình, bao gồm nhiều thế hệ của một dòng tộc. Ảnh hưởng này đã đâm rễ sâu trong sinh hoạt xã hội theo văn hóa Á Đông mà điển hình là Việt Nam. Tuy ngày nay quan niệm và ảnh hưởng đại gia đình đang được thay thế bằng quan niệm và ảnh hưởng tiểu gia đình dựa theo đà phát triển kinh tế, xã hội, công ăn việc làm…đặc biệt tại các xã hội Tây Phương. Nhưng ảnh hưởng của nó vẫn còn là một ý niệm và nề nếp sinh hoạt nền tảng của xã hội. Chính Thiên Chúa đã kết hợp Adam với Eva. Tình yêu nối kết giữa hai người khắng khít đến độ, cũng theo Thánh Kinh, “vì thế, người nam sẽ từ bỏ cha mẹ mình và luyến ái với vợ mình. Và cả hai trở nên một” 5 . Từ ngữ người nam, 4 Đức Hồng Y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York. 5 Sáng Thế, 223-24 10 [...]... cha, mẹ là những từ ngữ đã làm nên ý nghĩa và định nghĩa của hôn nhân ngay từ nguyên thủy Quan điểm đầu tiên nhắm vào những lý luận và cuộc sống đồng tính và hôn nhân đồng tính cho rằng, đồng tính và hôn nhân đồng tính phải được thừa nhận và phải được coi như ngang hàng với hôn nhân căn bản giữa người nam và người nữ Nhưng dù có những lý luận và giải thích cách này hay cách khác của con người, Thánh... kết hợp giữa một người nam và một người nữ Hình thức hôn nhân này không chỉ được nhìn thấy qua các nền văn hóa của nhân loại, dù dưới chế độ phụ hệ hay mẫu hệ, hoặc ngay cả trong chế độ đa thê trước đây Do đó - Hôn nhân đồng tính không trả lời được đòi hỏi của Thiên Chúa về sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ - Hôn nhân đồng tính không giải thích được lý do tại sao từ ban đầu Thiên Chúa... thuộc những nước không có luật chống TDĐG nhưng cũng không có luật chống kỳ thị và văn bản của Luật Hôn nhân gia đình không có điều khoản nào cho phép hôn nhân đồng giới Tuy nhiên, trên thực tế đã từng có kết hôn cùng giới được nói đến trên phương tiện thông tin đại chúng 13 Kết quả khảo sát về sự chấp nhận của cộng đồng với TDĐG trả lời câu hỏi xã hội có chấp nhận TDĐG không? thì tỷ lệ đồng ý trong... Máccô, 106 Sáng Thế, 128 11 - Hôn nhân đồng tính cũng không trả lời được mệnh lệnh Thiên Chúa khi Ngài truyền dậy những người bước vào đời sống hôn nhân “Hãy sinh sản ra nhiều mặt đất”.8 Ngày 09/01/2012, Đức Thánh Cha đã lên tiếng cảnh báo Hôn nhân đồng tính là một trong nhiều mối đe dọa cho cơ cấu gia đình theo truyền thống, và làm tổn hại đến “chính tương lai của nhân loại” Đức Thánh Cha đã mạnh... Không những Thánh Kinh nói về nền tảng hôn nhân một vợ, một chồng giữa người nam và người nữ, nó còn cho ta biết về một mục đích khác nữa của hôn nhân là để sinh sản con cái Thiên Chúa đã nói với Adam và Eva “Hãy sinh sản ra nhiều trên mặt đất”.7 Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ” Hôn nhân dưới ánh sáng Lời Chúa là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ Hình thức hôn. .. TDĐG nhưng chỉ áp dụng với nam Úc không có luật chống TDĐG; có luật chống kỳ thị ở tất cả các bang Hôn nhân đồng giới còn bị cấm ở một số vùng Nam Úc và Victoria C KẾT LUẬN VẤN ĐỀ Từ các luận điểm đã nêu trong bài viết, cùng với những số liệu cụ thể đã thống kê tại phần 2 và 5; xét thấy, chúng ta chưa cần thiết phải đưa quy định kết hôn đồng giới vào trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam trong thời... Cha đã mạnh mẽ đưa ra những nhận định chống lại thứ Hôn nhân đồng tính trong bài diễn văn ngỏ cùng các phái đoàn ngoại giao quy tụ tại Vatican vào dịp đầu năm mới Trong bài diễn văn đầu năm mới 2012, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô 9 đã lên tiếng cảnh báo Hôn nhân Đồng tính là một trong những mối đe dọa cho cơ cấu gia đình truyền thống Ngài nói “Gia đình không chỉ đơn thuần là một khế ước xã hội, nhưng hơn... đồng tính nam liệu có đảm bảo được điều này không? Điều này có làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai của nhân loại không? 5 Pháp luật của những quốc gia và dư luận xã hội trên thế giới chưa tán thành kết hôn đồng giới - Châu Phi Trong số 51 nước được khảo sát thì 23 nước có luật chống TDĐG Tình dục đồng giới nhưng 8 nước chỉ áp dụng với nam; 18 nước không có luật Hình phạt với những người có hành... Emirat thống nhất, Yemen Hầu hết các nước châu Á không có luật chống kỳ thị người TDĐG, trừ Hong Kong, Philippine, Nhật và Israel ngay cả trong quân đội nước này cũng không kỳ thị Ở Campuchia, quốc vương Norodom Sihanouk đã kêu gọi hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới Trung Quốc cũng đang xem xét lại luật hôn nhân Afghanistan vẫn coi TDĐG là tội hình sự nhưng không còn áp dụng tội tử hình nữa sau khi chính... thái độ với xu hướng tình dục Hiến pháp chống lại sự kỳ thị các xu hướng tính dục và toà án tối cao cho phép hôn nhân đồng giới từ năm 2006 Luật chống lại sự kỳ thị về xu hướng tính dục trong tuyển chọn lao động hầu hết các nước Phi châu không có luật này, trừ Namibia có từ 1992 và Nam Phi Về tỷ lệ cộng đồng chấp nhận và không chấp nhận hành vi TDĐG thì Kenya đứng đầu chỉ có 1% dân số chấp nhận . của hôn nhân ngay từ nguyên thủy. Quan điểm đầu tiên nhắm vào những lý luận và cuộc sống đồng tính và hôn nhân đồng tính cho rằng, đồng tính và hôn nhân. chấp nhận hôn nhân đồng giới, thì chúng ta sẽ phải định nghĩa lại hôn nhân là gì? Mục đích của hôn nhân? chức năng của hôn nhân? Gia đình đồng giới - Xem thêm -Xem thêm Tiểu luận Hôn nhân đồng tính, Tiểu luận Hôn nhân đồng tính, , Định nghĩa về đồng tính luyến ái và hơn nhân đồng giới. 2 Số liệu thống kê tỷ lệ người đồng tính. 3 Pháp luật và dư luận Việt Nam về vấn đề này. 4, Định nghĩa về đồng tính luyến ái và hơn nhân đồng giới., Số liệu thống kê tỷ lệ người đồng tính.
Download Free DOCXDownload Free PDFPHẦN 1 TỔNG QUAN VỀ DỒNG TINHPHẦN 1 TỔNG QUAN VỀ DỒNG TINHPHẦN 1 TỔNG QUAN VỀ DỒNG TINHPHẦN 1 TỔNG QUAN VỀ DỒNG TINHLan Chi Nguyen
Nghiên cứu khoa học NCKH là công việc không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra tri thức mới phục vụ cho sự phát triển của nhân loại. Tại các trường đại học, NCKH là một phần không thể thiếu đối với giảng viên. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa tương xứng và phù hợp tại các trường đại học - nơi đang chỉ thực hiện duy nhất một chức năng là giảng dạy. Do đó, nghiên cứu này tập trung khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên dựa trên lý thuyết nhu cầu mở rộng của Maslow. Thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng bằng cách khảo sát 862 giảng viên trong cả nước, nghiên cứu đã chỉ ra thu nhập, chính sách khen thưởng và công nhận, nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, sở thích, nhận thức đối với việc nghiên cứu khoa học, và cơ hội thăng tiến có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất một số hàm ý quản trị cho các nhà quản lý tại cơ sở giáo dục đại học trong cả nước. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 46, 2020 © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW LÊ THỊ KIM HOA1, BÙI THÀNH KHOA2 1Khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 2Khoa Thương mại du lịch, Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 1lethikimhoa 2buithanhkhoa Tóm tắt – Nghiên cứu khoa học NCKH là công việc không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra tri thức mới phục vụ cho sự phát triển của nhân loại. Tại các trường đại học, NCKH là một phần không thể thiếu đối với giảng viên. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa tương xứng và phù hợp tại các trường đại học - nơi đang chỉ thực hiện duy nhất một chức năng là giảng dạy. Do đó, nghiên cứu này tập trung khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên dựa trên lý thuyết nhu cầu mở rộng của Maslow. Thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng bằng cách khảo sát 862 giảng viên trong cả nước, nghiên cứu đã chỉ ra thu nhập, chính sách khen thưởng và công nhận, nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, sở thích, nhận thức đối với việc nghiên cứu khoa học, và cơ hội thăng tiến có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. Đồng thời, nghiên cứu cũng đề xuất một số hàm ý quản trị cho các nhà quản lý tại cơ sở giáo dục đại học trong cả nước. Từ khóa – Động lực nghiên cứu khoa học, lý thuyết nhu cầu Maslow mở rộng, giảng viên đại học SCIENTIFIC RESEARCH MOTIVATIONS A NEW APPROACH FROM MASLOW’S HIERARCHY OF NEEDS THEORY Abstract – Scientific research not only contributes to improving the quality of training but creates new knowledge for the development of humankind. Scientific research is an integral part of lecturers in the university. However, this critical activity is still inadequate and appropriate at universities - which are currently performing only the teaching function. Therefore, this research focuses on discovering factors that influence faculty research motivation based on the extended Maslow’s hierarchy of needs theory. Through quantitative research methods by surveying 862 lecturers nationwide, the study showed that income, reward and recognition policy, professional qualifications and competencies improvement, responsibility, interests, perceptions of scientific research, and career promotion have a positive impact on scientific research motivation of lecturers in the university. The study also proposed some managerial implications for the board of directors in higher education institutions to improve the scientific research motivation of lecturers. Keywords – Scientific research motivations, the extended Maslow’s hierarchy of needs theory, lecturer 1 GIỚI THIỆU Hiện nay, trên thế giới có nhiều bảng xếp hạng đại học, tất cả các bảng xếp hạng này đều đặt nặng vấn đề NCKH và công bố quốc tế, tiêu chí NCKH được gắn trọng số cao; chiếm 30% trên 5 tiêu chí, bao gồm dạy học môi trường học tập; nghiên cứu khối lượng, thu nhập và danh tiếng; trích dẫn ảnh hưởng nghiên cứu; triển vọng quốc tế nhân viên, sinh viên và nghiên cứu, và thu nhập chuyển giao kiến thức [1]. Do vậy, một trong những yếu tố quan trọng quyết định thứ hạng của các đại học là nghiên cứu khoa học. Điều này cho ta thấy, NCKH có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học. Đồng thời, NCKH là công việc không những góp phần nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra tri thức mới phục vụ cho sự phát triển của nhân loại. Đặc biệt, đối với giáo dục đại học, ngoài việc áp dụng các công nghệ tiến bộ trong giảng dạy [2], tuyển sinh, đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên thì NCKH là một hoạt động cần thiết để nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên, những nhà khoa học tại các cơ sở giáo dục đại học; từ đó, tạo ra thêm các giá trị về tri thức cho người học. 236 ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh Sự sáng tạo của nhà khoa học là động lực chính cho tiến bộ khoa học và công nghệ, đồng thời cũng là tiền đề cho những tiến bộ trong các lĩnh vực xã hội khác. Kể từ thập niên 1980, các nghiên cứu khoa học bị chi phối bởi mô hình tập trung vào các điều kiện vi mô để tạo ra tri thức trong môi trường các phòng thí nghiệm hơn là nghiên cứu tự do [3]. Chỉ gần đây, những nỗ lực mới đã được thực hiện để thiết lập lại quan điểm, đó là, tổ chức cũng như các viện có vai trò tiên phong trong hoạt động nghiên cứu và công bố thành tựu khoa học [4, 5]. Hemlin và cộng sự [6] đã khám phá các yếu tố khác nhau của một học viện có liên quan đến môi trường tri thức sáng tạo. Tuy nhiên, trong cuốn sách về sự ngẫu nhiên trong khoa học, Merton và Barber [7] đã kết luận rằng phân tích các yếu tố gắn với một viện nghiên cứu, học viện, trường đại học ảnh hưởng đến NCKH vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Nhiều câu hỏi quan trọng được đặt ra liên quan đến hoạt động NCKH, chẳng hạn, những thành tựu của các nhà khoa học là gì? Làm thế nào chúng ta có thể xác định được chúng? Các tổ chức nào thường xuyên NCKH nhất? Và yếu tố thể chế nào có ảnh hưởng trong việc định hình môi trường nghiên cứu tiên tiến? Hoạt động NCKH tại các trường đai học có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của nhà trường; như hệ thống giáo trình, đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo khá đầy đủ và có chất lượng tốt phục vụ công tác giáo dục, đào tạo; ngay trong một giáo trình môn học hay một bài giảng cũng là kết tinh của quá trình NCKH. Không chỉ phục vụ công tác giảng dạy, NCKH trong nhà trường còn đáp ứng nhu cầu mà xã hội và nền kinh tế đòi hỏi, bao gồm, chế tạo các sản phẩm có chất lượng, chế tạo máy móc công cụ… để phục vụ sản xuất. Trong thời gian qua, hoạt động chính chủ yếu ở các trường là giảng dạy, do đó, hoạt động NCKH ở nhiều trường đại học, kể cả trường công lẫn trường tư, còn yếu cả về chất lượng và số lượng. Theo thống kê, số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước hoặc các công trình được công bố ở các cấp độ khác nhau tính trên đầu giảng viên đại học cho thấy rất nhiều giảng viên đại học có học vị tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư hoặc tham gia giảng dạy rất lâu năm nhưng hầu như không có nhiều công trình nghiên cứu khoa học tương xứng hoặc chưa thực hiện được một công trình nào. Qua đó, dễ dàng nhận thấy sự phát triển của các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam vẫn chưa đi đôi với sự phát triển hoạt động NCKH của giảng viên. Hành vi của con người thường xuất phát từ các động lực bên trong và bên ngoài của họ [8]. Do đó, động lực NCKH của giảng viên là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy họ thực hiện hành vi nghiên cứu, và xuất bản các nghiên cứu đó trên các tạp chí học thuật. Động lực NCKH là thái độ sẵn sàng của giảng viên trong hoạt động thực hiện các bài báo, công trình NCKH các cấp [9]. Ngoài ra, động lực nghiên cứu còn thể hiện ở sự tự giác của giảng viên trong hoạt động NCKH khi giảng viên tận dụng thời gian rảnh, và có định hướng nghiên cứu liên tục [10]. Các nghiên cứu về động lực NCKH trước đây chủ yếu tập trung vào nghiên cứu động lực NCKH của sinh viên [11], hay chỉ phân tích về vai trò, lợi ích, hay hạn chế về NCKH [12, 13], hoặc dựa trên lý thuyết kỳ vọng của Vroom trong nghiên cứu về động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học ở Việt Nam [14]. Maslow [15] đã chỉ ra rằng, động lực là hậu tố của nhu cầu con người, bao gồm các nhu cầu bậc cao và bậc thấp của con người. Giảng viên tại các cơ sở giáo dục có sự khác biệt về nhu cầu so với các cá nhân khác, và đây là những cá nhân tập trung vào nhu cầu bậc cao. Điều quan trọng cần lưu ý là mô hình năm giai đoạn của Maslow 1943 đã được mở rộng, bao gồm Nhu cầu nhận thức và thẩm mỹ [16] và nhu cầu siêu việt [17]. Từ đó, mục tiêu của nghiên cứu này là dựa trên lý thuyết nhu cầu của Maslow để tìm hiểu và đánh các yếu tố ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên tại các trường Đại học tại Việt Nam, cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, các phần tiếp theo của nghiên cứu bao gồm Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu, thảo luận và hàm ý quản trị. 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU Học thuyết nhu cầu của Maslow Hệ thống nhu cầu của Maslow là một lý thuyết động lực trong tâm lý học bao gồm một mô hình các tầng về nhu cầu của con người, thường được mô tả như là các cấp bậc trong một kim tự tháp. Nhu cầu thấp hơn trong hệ thống phân cấp phải được thỏa mãn trước khi các cá nhân có thể tham dự để có nhu cầu cao hơn. Maslow [15] đã đề xuất một hệ thống cấp bậc gồm năm mức độ, từ dưới cùng của hệ thống phân cấp trở lên, gồm các nhu cầu Sinh lý, an toàn, tình yêu và thuộc về, lòng tự trọng, và tự khẳng định. Sau đó, mô hình được mở rộng bao gồm Nhu cầu siêu việt [17], nhu cầu nhận thức và nhu cầu thẩm mỹ [16]. Cụ thể như sau ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT 237 NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh Nhu cầu sinh học và sinh lý Biological and physiological needs - không khí, thức ăn, đồ uống, nơi trú ẩn, ấm áp, tình dục, giấc ngủ, Nhu cầu an toàn Safety needs - bảo vệ khỏi các yếu tố, an ninh, trật tự, luật pháp, ổn định, tự do khỏi sự sợ hãi. Nhu cầu về tình yêu và sự thân thuộc Love and belongingness needs - tình bạn, sự thân mật, sự tin tưởng và sự chấp nhận, tiếp nhận và trao đi tình cảm và tình yêu. Liên kết, là một phần của một nhóm gia đình, bạn bè, công việc. Nhu cầu về lòng tự trọng Esteem needs - được Maslow phân thành hai loại i quý trọng bản thân nhân phẩm, thành tích, làm chủ, độc lập và ii mong muốn danh tiếng hoặc sự tôn trọng từ người khác ví dụ Địa vị, uy tín. Nhu cầu nhận thức Cognitive needs - kiến thức và hiểu biết, tò mò, khám phá, cần ý nghĩa và dự đoán. Nhu cầu thẩm mỹ Aesthetic needs - đánh giá cao và tìm kiếm vẻ đẹp, sự cân bằng, hình thức, Nhu cầu tự khẳng định Self-actualization needs - hiện thực hóa tiềm năng cá nhân, tự hoàn thành, tìm kiếm sự phát triển cá nhân và trải nghiệm đỉnh cao. Một khao khát được trở thành mọi thứ mà người ta có khả năng trở thành một người. Nhu cầu siêu việt Transcendence needs - Một người được thúc đẩy bởi các giá trị vượt ra ngoài bản thân cá nhân ví dụ Kinh nghiệm nhất định với thiên nhiên, theo đuổi khoa học, đức tin tôn giáo…. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu Các nghiên cứu trong và ngoài nước có sự thống nhất cao về các nhân tố ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên như Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH Nhã, 2016; Dung và cộng sự, 2015, thu nhập [18, 19], cơ hội thăng tiến [19], sở thích [19, 20], tinh thần trách nhiệm [19, 21], chính sách khen thưởng và động viên [22], nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn [22, 23]. Kết hợp với lý thuyết nhu cầu mở rộng của Maslow, nghiên cứu này đã thực hiện thảo luận nhóm và lựa chọn các yếu tố phù hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, bao gồm; Thu nhập tương ứng với nhu cầu sinh học và sinh lý, chính sách khen thưởng và công nhận tương ứng với nhu cầu về tình yêu và sự thân thuộc, cơ hội thăng tiến cũng như sở thích tương ứng với nhu cầu về lòng tự trọng, nhận thức đối với việc thực hiện NCKH tương ứng nhu cầu nhận thức, tinh thần trách nhiệm tương ứng như cầu tự khẳng định, nhu cầu nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn tương ứng nhu cầu siêu việt. Thu nhập được hiểu là tất cả các khoản từ nhà trường mà giảng viên nhận được, bao gồm Lương cơ bản, lương thu nhập tăng thêm, tiền thưởng, khoản lương trợ cấp khi hoàn thành NCKH. Theo Kovach [24], để tạo động lực làm việc cho cá nhân trong tổ chức thì tiền lương mà cá nhân đó nhận được phải đảm bảo cuộc sống cá nhân. Patchawong và cộng sự [25] cho rằng thu nhập là yếu tố ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên. Điều này sẽ làm cho giảng viên có động lực hơn, họ sẽ có trách nhiệm hơn với công việc và tổ chức đang công tác [26]. Zembylas và Papanastasiou [27] cũng cho rằng tiền thưởng ảnh hưởng đến động lực lao động khoa học của giảng viên. Như vậy, thu nhập là một vấn đề quan tâm của giảng viên khi NCKH; do đó, tác giả đề xuất giả thuyết H1 Thu nhập có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên Chính sách khen thưởng và công nhận là sự ghi nhận, sự đánh giá của cấp trên, của đồng nghiệp về sự đóng góp của giảng viên vào thành công của tổ chức [24], ngoài ra còn có sự khen thưởng cho thành tích xuất sắc của các giảng viên NCKH. Chính sách trọng thị nhân tài của trường sẽ ghi nhận tài năng của các giảng viên và trân trọng những đóng góp mang lại cho sự phát triển của khoa học. Điều này khuyến khích các giảng viên NCKH hoàn thành mục tiêu và thúc đẩy họ NCKH. Yếu tố chính sách khen thưởng và công nhận được xem là nhân tố tác động đến hoạt động NCKH của giảng viên [22]. Do đó, giả thuyết H2 được đặt ra H2 Chính sách khen thưởng và công nhận có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. Cơ hội thăng tiến là cơ hội có địa vị càng ngày càng cao hơn trong nghề nghiệp của mỗi cá nhân người lao động. Khao khát cho sự thay đổi trong nghề nghiệp, có được sự thăng tiến trong nghề nghiệp là một trong những động cơ thúc đẩy trong công việc của nhiều giảng viên [28]. Sharma và Jyoti [29] cũng chỉ ra rằng cơ hội để học tập, phát triển chuyên môn, cơ hội có được địa vị trong nghề nghiệp là nhân tố tiếp theo sau 238 ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh công việc tác động mạnh đến động lực làm việc của giảng viên. Công việc chính của giảng viên là dạy học và làm NCKH, do đó, các yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của giảng viên sẽ ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên. Zhang [19] cũng cho rằng yếu tố “sự thăng tiến” nằm trong nhóm động lực cho hoạt động NCKH của giảng viên. Do đó, trong nghiên cứu này, tác giả đề xuất giả thuyết H3 Cơ hội thăng tiến có ảnh hưởng thuận chiều đến động lực NCKH của giảng viên. Lý thuyết sự phù hợp giải thích nguyên nhân con người theo đuổi mục tiêu mạnh mẽ đến cùng là do có sự phù hợp về sở thích. Sở thích là đánh giá chủ quan của một người về sở thích và hành vi của họ liên quan đến sở thích đó [30]. Đối với hoạt động NCKH, sự thích thú được xem như sự tự nguyện trong quá trình nghiên cứu mà không bị chi phối bởi sự ràng buộc nào, giảng viên sẽ thực hiện các đề tài NCKH dựa trên đam mê, sự tự nguyện của bản thân. Theo Zhang [19], sở thích có ảnh hưởng đến động lực NCKH của các trường đại học ở Trung Quốc. Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết H4 Sở thích có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH chính là các quan điểm, cách nhìn nhận của giảng viên đối với việc thực hiện NCKH. Theo Chen và cộng sự [31] nếu một cá nhân đánh giá cao và cho rằng việc thực hiện nghiên cứu là một hành vi tốt, mang lại lợi ích cho bản thân và xã hội thì cá nhân đó sẽ có nhiều động lực để thực hiện NCKH. Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên đại học [20]. Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết H5 Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. Herzberg và cộng sự [32] đã chia ra thành hai nhóm nhân tố tác động tới động lực và kết quả làm việc của người lao động, trong đó nhóm nhân tố động viên có yếu tố “trách nhiệm công việc”. Nếu nhân viên có trách nhiệm công việc, sẽ làm cho họ được khuyến khích thực hiện công việc với kết quả tốt nhất. Zhang [19] chỉ ra rằng yếu tố “tinh thần trách nhiệm” có ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên trong các trường ĐH ở Trung Quốc. Ngoài ra, yếu tố trách nhiệm là một trong các yếu tố đã tác động mạnh mẽ đến động lực lao động và giúp giáo viên gắn bó nhiều hơn với các hoạt động của nghề giáo như giảng dạy, hoặc NCKH [21]. Vậy, giả thuyết H6 được đặt ra Nguồn Đề xuất của nhóm tác giả Hình 1 Mô hình nghiên cứu đề xuất H6 Tinh thần trách nhiệm có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. NCKH của giảng viên là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi khoa học kỹ thuật thay đổi [33], sự phát triển của môi trường kinh tế số [34]. Do đó, tham gia NCKH sẽ giúp giảng viên có điều kiện đào sâu hơn, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức trình độ chuyên môn, cũng như tiếp cận với kiến thức thực tế. Patchawong và cộng sự [25] đã chỉ ra có hai nhóm động lực của hoạt động NCKH giảng viên, trong đó có yếu tố nâng cao trình độ và năng lực Nhận thức đối với việc thực hiện nghiên cứu khoa học Cơ hội thăng tiến Chính sách khen thưởng và Động lực NCKH của giảng viên Nâng cao trình độ, năng lực ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT 239 NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh chuyên môn. Nhu cầu nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của giảng viên có ảnh hưởng đến động lực NCKH [23]. Như vậy, việc nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn có ảnh hưởng đến động lực NCKH của giảng viên; do đó, nghiên cứu đề xuất giả thuyết H7 Nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn có ảnh hưởng đồng biến đến động lực NCKH của giảng viên. Từ các giả thuyết nêu trên, nghiên cứu đề xuất mô hình nghiên cứu bao gồm bảy nhân tố tác động đến động lực NCKH của giảng viên tại các trường đại học. Mô hình nghiên cứu được trình bày ở hình 1. 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng việc phỏng vấn sâu năm giảng viên có học vị tiến sĩ trở lên đang giảng dạy tại các khoa của trường Khoa Kế toán – Kiểm toán 3 giảng viên, Khoa Tài chính – Ngân hàng 1 giảng viên và Khoa Ngoại Ngữ 1 giảng viên bằng nhiều hình thức khác nhau như Phỏng vấn trực tiếp, gọi điện thoại, gửi email về bảng thang đo nháp, để tăng thêm độ tin cậy cho bảng câu hỏi và mô hình nghiên cứu chính thức, trước khi cho tiến hành khảo sát chính thức [35]. Các giảng viên được chọn thực hiện phỏng vấn có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu, thành quả nghiên cứu với mục đích có thể lấy được ý kiến từ nhiều khía cạnh khác nhau. Kết quả nghiên cứu định tính đã điều chỉnh nội dung các chỉ mục đo lường trong từng cấu trúc và xây dựng bảng câu hỏi khảo sát định lượng. Bảng 1 Thống kê các thang đo được sử dụng trong nghiên cứu 1. Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH NCKH là tốt cho việc hiểu sâu về lý thuyết NCKH là tốt cho việc giúp hiểu thêm về thực tiễn NCKH là cần thiết để giúp kích thích sáng tạo trong công việc NCKH là cần thiết để phát triển những kỹ năng nghiên cứu NCKH là điều kiện để phát triển bản thân trong sự nghiệp NCKH là môi trường giúp tạo nên những sáng chế mới Lương phù hợp với năng lực và đóng góp khi NCKH Thưởng cho NCKH xứng đáng với hiệu quả công việc Phần thưởng cho NCKH phân phối công bằng Thu nhập nhận được từ NCKH công bằng với các đơn vị khác NCKH giúp đạt được các vị trí cao hơn trong trường đại học Được đề bạt lên vị trí cao hơn nhờ vào NCKH NCKH tạo cơ hội thăng tiến cho người có năng lực NCKH tạo cơ hội phát triển cá nhân trong sự nghiệp Hào hứng với công việc, yêu thích và đam mê với NCKH Cảm thấy vui vẻv ới các quy định của Trường về NCKH Thầy/Cô cảm thấy thoải mái với môi trường NCKH Thầy/Cô không ngừng sáng tạo trong NCKH Thầy/Cô thực hiện NCKH mà không phải do bắt buộc Luôn có tinh thần trách nhiệm với công việc NCKH Luôn học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau trong công việc NCKH 240 ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh Giảng viên luôn sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp để NCKH Giảng viên luôn chịu khó học hỏi NCKH 6. Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn NCKH giúp hiểu sâu hơn về chuyên môn NCKH sẽ giúp việc giảng dạy đại học không quá khó khăn Thầy/ Cô kỳ vọng sau NCKH thì mọi đề xuất cho đề tài NCKH của mình được thông qua dễ dàng NCKH giúp phát triển năng lực bản thân 7. Chính sách khen thưởng và công nhận Nhà trường có chính sách khen thưởng theo kết quả NCKH. Chính sách khen thưởng NCKH kịp thời, rõ ràng, công khai. Lãnh đạo đánh giá đúng năng lực NCKH của Thầy/Cô Nhà trường ghi nhận đóng góp NCKH của Thầy/Cô vào sự phát triển của trường. Nhà trường luôn nhất quán thực thi các chính sách khen thưởng và công nhận các NCKH. Sẵn sàng tình nguyện cho các NCKH trong tương lai mà không có phần thưởng Thực hiện NCKH trong thời gian rãnh Tự bản thân sẽ xây dựng kế hoạch NCKH NCKH mang lại lợi ích cho bản thân tôi khi thực hiện Nguồn Tổng hợp của nhóm tác giả Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert để đánh giá các cấu trúc nghiên cứu, với 1 là hoàn toàn không đồng ý, và 5 là hoàn toàn đồng ý. Các chỉ mục đo lường trong bảng 1 được xây dựng dựa trên các nghiên cứu trước đây, được phát triển qua quá trình nghiên cứu định tính. Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi khảo sát để thu thập dữ liệu định lượng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi giấy để khảo sát tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh và bảng câu hỏi trực tuyến để khảo sát tại các trường đại học tại tỉnh thành khác trong cả nước. Đối với phân tích hồi quy đa biến thì cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được tính theo công thức là n = 50 + 8*m, với m số biến độc lập [39]. Trong nghiên cứu này, số lượng biến độc lập là 07, do đó, kích thước mẫu tối thiểu là n = 106. Số phiếu khảo sát nhận về hợp lệ là 862 phiếu, đáp ứng rất tốt tiêu thức quy mô mẫu, từ đó làm tăng tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu. Yêu cầu để trả lời bảng câu hỏi ở đây là các đáp viên phải có ít nhất một bài báo khoa học hoặc đề tài NCKH. Bảng 2 mô tả về mẫu nghiên cứu cho thấy 71% giảng viên nam và 29% giảng viên nữ tham gia khảo sát. Độ tuổi phổ biến trong nghiên cứu tập trung từ 29 – 45 với 74,4%. Lĩnh vực nghiên cứu của các đáp viên ở ba lĩnh vực Kinh tế 37,2%, xã hội 27,1% và kỹ thuật 35,7%. Các trường đại học mà giảng viên tham gia khảo sát phân bổ ở các trường nằm trong top 30 các trường có thành tích cao về NCKH theo báo cáo của Bảng xếp hạng nghiên cứu tại đại học của Việt Nam [40]. Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 26 để xử lý dữ liệu thu thập được, bao gồm Đánh giá độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích tương quan, và phân tích hồi quy. ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT 241 NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh Bảng 2 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu Đại học Công nghiệp TPHCM Nguồn Kết quả thống kê mô tả của nhóm tác giả 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Cronbach’s Alpha là thước đo tính nhất quán nội bộ, nghĩa là, một tập hợp các chỉ mục có liên quan chặt chẽ như thế nào với một nhóm, và được coi là một thước đo độ tin cậy của thang đo. Theo Nunnally và Bernstein [41], hệ số Cronbach’s Alpha của một cấu trúc cần phải lớn hơn 0,7; và hệ số tương quan biến tổng của các chỉ mục trong cấu trúc phải từ 0,3 trở lên. Do đó, theo bảng 3, các thang đo trong nghiên cứu đều có độ tin cậy cho nghiên cứu. Trong đó, độ tin cậy thấp nhất của thang đo động lực NCKH và thang đo sở thích NCKH. Bảng 3 Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo Hệ số tương quan biến tổng nhỏ nhất Hệ số nếu xóa biến lớn nhất Chính sách khen thưởng và công nhận Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn Nguồn Kết quả kiểm định độ tin cậy các thang đo của nhóm tác giả Kết quả phân tích EFA của nhóm phụ thuộc ở bảng 4 cho thấy các chỉ mục nghiên cứu hội tụ thành một nhân tố với hệ số KMO = 0,743 > 0,5 và sig của kiểm định Bartlett = 0,000 1, tổng phương sai trích của nhân tố này là 53,925% > 50%, và hệ số tải nhân tố của các chỉ mục đều lớn hơn 0,5. 242 ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh Bảng 4 Kết quả phân tích nhân tố EFA của biến phụ thuộc KMO 0,743, sig. của kiểm định Bartlett 0,000 Nguồn Kết quả phân tích nhân tố EFA của nhóm tác giả Kết quả phân tích EFA ở bảng 5 của nhóm biến độc lập cho thấy các chỉ mục nghiên cứu được chia ra thành 07 nhóm nhân tố với hệ số KMO = 0,751 > 0,5 và sig của kiểm định Bartlett = 0,000 1, tổng phương sai trích của bảy nhân tố là 59,285% > 50%, và hệ số tải nhân tố của các chỉ mục đều lớn hơn 0,5. Do đó, nghiên cứu đã chỉ ra được có bảy nhân tố độc lập, bao gồm 1 Thu nhập, 2 Chính sách khen thưởng và công nhận, 3 Cơ hội thăng tiến, 4 Sở thích, 5 Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH, 6 Tinh thần trách nhiệm, và 7 Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. Tiếp theo, nghiên cứu sẽ xác định sự tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. Trong thống kê, mối tương quan là mức độ mà một cặp biến có liên quan tuyến tính giữa hai biến ngẫu nhiên hoặc dữ liệu hai biến. Tất cả giá trị sig. đều bằng 0,00 0; Beta = 0,419; sig.=0,00 0; Beta = 0,303; sig. = 0,00 0; Beta = 0,291; sig. = 0,00 0; Beta = 0,260; sig. = 0,00 0; Beta = 0,253; sig. = 0,00 0; Beta = 0,187; sig. = 0,00 0; Beta = 0,158; sig. = 0,00 < 0,001 tác động ít nhất đến biến phụ thuộc. Kết quả này cũng tương đối dễ hiểu khi Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế tri thức, thói quen nghiên cứu đang có sự thay đổi từng ngày; tuy nhiên, đa phần các nhà nghiên cứu vẫn chưa có sự chủ động trong NCKH. Hoạt động chính của giảng viên đang thực hiện là giảng dạy hơn là NCKH. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu cũng có sự tương đồng với các nghiên cứu quốc tế [19, 31] và nghiên cứu trong nước [20]. Hàm ý quản trị Như vậy, để tạo động lực cho giảng viên NCKH, các nhà quản lý cần đưa ra các mức khen thưởng phù hợp, có thể dựa theo xếp hạng tạp chí của các tổ chức uy tín như Scopus, hay ISI. Ngoài ra, cần có chính sách phân phối nguồn tiền liên quan đến NCKH một cách hợp lý, công bằng. Ngoài ra, nhà trường ghi nhận tiềm năng, nuôi dưỡng tài năng và khen thưởng cho thành tích xuất sắc của các giảng viên NCKH. Nghĩa là, ngoài chế độ lương thưởng, các giảng viên NCKH còn được công nhận thông qua chính sách vinh danh trên website trường, được ghi tên vào quyết định vinh danh do Hiệu trưởng kí, bằng khen ghi nhận sự đóng góp của giảng viên, tổ chức chương trình thường niên nhằm tôn vinh các giảng viên có thành tích NCKH ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT 245 NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh xuất sắc. Các trường đại học nên tổ chức các lớp tập huấn viết bài báo hoặc đề tài NCKH để giúp giảng viên nâng cao trình độ, tự tin hơn trong nghiên cứu. Ngoài ra, các buổi sinh hoạt chuyên đề giữa các giảng viên trong các khoa chuyên ngành cũng giúp thúc đẩy nhu cầu nâng cao trình độ của giảng viên, từ đó họ sẽ tích cực NCKH hơn. Chính sách thăng tiến tại các trường đại học có thể ràng buộc một số tiêu chí về khoa học, như bài báo khoa học hay đề tài NCKH các cấp cơ sở, tỉnh, thành phố,…. Cần xem NCKH là một KPI trong đánh giá hoàn thành niệm vụ tại đơn vị. Các trường ngoài việc có chính sách động viên giảng viên nâng cao trách nhiệm nghiên cứu, đồng thời phải khẳng định NCKH là hoạt động bắt buộc và được tính giờ trong các văn bản quy định như quy chế chi tiêu nội bộ, quy định nhiệm vụ giảng viên. Hơn nữa, các trường đại học cần có chính sách tuyên truyền về lợi ích của NCKH, có các cuộc vận động về tham gia NCKH trong giảng viên, hoặc có các hoạt động sinh hoạt chuyên môn thường xuyên cho giảng viên. 6 KẾT LUẬN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Hoạt động NCKH tại các trường đại học có vai trò quan trọng trong việc phát triển các hệ thống học thuật do tạo ra khác biệt và tính hiệu quả, đồng thời giúp các quốc gia tham gia vào xã hội tri thức toàn cầu và cạnh tranh trong các nền kinh tế tri thức. Các trường đại học nghiên cứu đã xuất hiện trong chương trình nghị sự về chính sách ở nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, hiểu được đặc điểm tạo ra động lực NCKH và xây dựng cơ sở hạ tầng và môi trường trí tuệ cần thiết cho các trường đại học nghiên cứu thành công là ưu tiên hàng đầu cho các quốc gia. Thông qua kết quả khảo sát các giảng viên tại các trường đại học có thành tích nghiên cứu ở Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ ra bảy yếu tố tạo ra động lực cho giảng viên trong việc NCKH, bao gồm 1 Thu nhập, 2 Chính sách khen thưởng và công nhận, 3 Cơ hội thăng tiến, 4 Sở thích, 5 Nhận thức đối với việc thực hiện NCKH, 6 Tinh thần trách nhiệm, và 7 Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. Tuy đã có nhiều nỗ lực để tạo ra sự hoàn thiện; tuy nhiên, bài nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế. Đầu tiên, do hạn chế về thời gian và chi phí, nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất thuận tiện để khảo sát trực tuyến các đáp viên tại các tỉnh thành ngoài Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này có thể dẫn đến hạn chế tính đại diện của kết quả nghiên cứu. Thứ hai, nghiên cứu thực hiện khảo sát ở các trường có hoạt động NCKH mạnh tại Việt Nam; do đó, kết quả có thể chỉ phù hợp việc áp dụng tại nhóm các trường hàng đầu NCKH. Các nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung tại một trường, hoặc một nhóm trường cùng ngành để có thể sử dụng phương pháp chọn mẫu xác suất nhằm tăng tính đại diện của mẫu. Hơn nữa, việc mở rộng khảo sát ở nhiều trường, chẳng hạn như, trường công lập và tư thục, hoặc trường ít NCKH hoặc trường nhiều NCKH. Sự mở rộng và so sánh trên sẽ tạo ra sự đa dạng về các yếu tố tác động đến động lực NCKH của giảng viên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] World University Rankings. 2019. THE World University Rankings 2020 methodology. Truy cập tại [2] B. T. Khoa, H. M. Nguyen, N. V. H. Tran, và B. H. Nguyen, Lecturers’ adoption to use the online Learning Management System LMS Empirical evidence from TAM2 model for Vietnam, Journal of Science Hcmcou - Economics & Business Administration, vol. 10, no. 1, pp. 3-17, 2020. doi [3] A. Prasad, Science in motion what postcolonial science studies can offer, Reciis, vol. 2, no. 2, pp. 35-47, 2008. [4] M. A. Hollingsworth, The role of research training environment, past research attitudes, and mentoring relationships in predicting current research attitudes and behaviors, ProQuest Information & Learning, 2000. [5] J. Hage và M. T. Meeus, Innovation, science, and institutional change A research handbook. Oxford Oxford University Press, 2009. 246 ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh [6] S. Hemlin, C. M. Allwood, và B. R. Martin, Creative knowledge environments The influences on creativity in research and innovation. Cheltenham Edward Elgar Publishing, 2004. [7] R. K. Merton và E. Barber, The travels and adventures of serendipity A study in sociological semantics and the sociology of science. Princeton University Press, 2011. [8] E. L. Deci và R. M. Ryan, Self-determination theory, Handbook of theories of social psychology, vol. 1, no. 2011, pp. 416-433, 2011. [9] M. J. Shah, G. Akhtar, H. Zafar, và A. Riaz, Job satisfaction and motivation of teachers of public educational institutions, International Journal of Business and Social Science, vol. 3, no. 8, 2012. [10] J. Cameron và W. D. Pierce, Reinforcement, reward, and intrinsic motivation A meta-analysis, Review of Educational research, vol. 64, no. 3, pp. 363-423, 1994. [11] M. N. Al-Arifi, Attitudes of pharmacy students towards scientific research and academic career in Saudi Arabia, Saudi Pharmaceutical Journal, vol. 27, no. 4, pp. 517-520, May 2019. doi [12] C. Drummond và B. Fischhoff, Emotion and judgments of scientific research, Public Understanding of Science, vol. 29, no. 3, pp. 319-334, 2020. doi [13] T. Wang, Pan, Zhu, và B. Liao, Research on the Influence of Innovation Ability on the Level of University Scientific Research A Case Study of the Nine-University Alliance in China, Emerging Markets Finance and Trade, pp. 1-11, 2019. doi [14] Trần Thị Kim Nhung và Nguyễn Thành Độ, Mở rộng lý thuyết kỳ vọng của Vroom 1964 trong nghiên cứu về động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên đại học ở Việt Nam, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, vol. 4, no. 1, pp. 490-498, 2020. doi [15] A. H. Maslow, A theory of human motivation, Psychological review, vol. 50, no. 4, pp. 370-396, 1943. doi [16] A. H. Maslow, Motivation and personality. New York Harper & Row, 1970. [17] A. H. Maslow, Religions, values, and peak-experiences. Columbus Ohio State University Press Columbus, 1964. [18] C. Zoghi, Why have public university professors done so badly?, Economics of Education Review, vol. 22, no. 1, pp. 45-57, 2003. [19] X. Zhang, Factors that motivate academic staff to conduct research and influence research productivity in Chinese project 211 universities, Doctoral Disertation, Business Administration, University of Canberra, Australia, 2014. [20] Huỳnh Thanh Nhã, Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia NCKH của GV các trường cao đẳng công lập ở thành phố Cần Thơ, Tạp chí khoa học trường Đại học Cần thơ, vol. 46, no. 2016, pp. 20-29, 2016. [21] A. Keshwar Seebaluck và T. Devi Seegum, Motivation among public primary school teachers in Mauritius, International Journal of Educational Management, vol. 27, no. 4, pp. 446-464, 2013. doi [22] Phan Thị Tú Nga, Thực trạng và các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên Đại học Huế, Tap chí khoa học Đại học Huế, vol. 68, no. 5, pp. 67 - 78, 2011. ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT 247 NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh [23] A. N. Azad và F. J. Seyyed, Factors Influencing Faculty Research Productivity Evidence from AACSB Accredited Schools in the GCC Countries, Journal of International Business Research, vol. 6, no. 1, pp. 91 - 112, 2007. [24] K. A. Kovach, What motivates employees? Workers and supervisors give different answers, Business Horizons, vol. 30, no. 5, pp. 58-65, 1987. [25] P. Patchawong, C. Wangpan, và W. Ounjit, “Factors Affecting Research Development Production of Academic work Amongst Lecturers of Maharakhasam University in moving forward as Research University,” in International Conference on Management and Education Innovation, Kuala Lumpur, Malaysia, 2012, vol. 37. [26] L. George và T. Sabapathy, Work motivation of teachers Relationship with organizational commitment, Canadian Social Science, vol. 7, no. 1, pp. 90-99, 2011. [27] M. Zembylas và E. Papanastasiou, Job satisfaction among school teachers in Cyprus, Journal of Educational Administration, 2004. [28] C. Sinclair, Initial and changing student teacher motivation and commitment to teaching, Asia‐Pacific Journal of Teacher Education, vol. 36, no. 2, pp. 79-104, 2008. [29] R. Sharma và J. Jyoti, Job satisfaction of university teachers an empirical study, Journal of Services Research, vol. 9, no. 2, pp. 51-80, 2009. [30] M. Deutsch, Distributive justice A social-psychological perspective, 1985. [31] Y. Chen, A. Gupta, và L. Hoshower, Factors that motivate business faculty to conduct research An expectancy theory analysis, Journal of Education for Business, vol. 81, no. 4, pp. 179-189, 2006. [32] F. Herzberg, B. Mauser, và B. B. Synderman, Motivation to work. New York Wiley, 1959. [33] B. T. Khoa và T. Khanh, The Impact of Electronic Word-Of-Mouth on Admission Intention to Private University, Test Engineering and Management, vol. 83, no. May -June 2020, pp. 14956-14970, 2020. [34] H. M. Nguyen và B. T. Khoa, Perceived Mental Benefit in Electronic Commerce Development and Validation, Sustainability, vol. 11, no. 23, pp. 6587-6608, 2019. doi [35] J. W. Creswell và J. D. Creswell, Research design Qualitative, quantitative, and mixed methods approaches. Sage publications, 2017. [36] Vưu Thị Thùy Trang, Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Bách khoa-Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Luận văn ThS. Đo lường và đánh giá trong giáo dục, Luận văn thạc sĩ, Viện Đảm bảo chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012. [37] Nguyễn Minh Đức, Nâng cao năng lực nghiên cứu của giảng viên để thực hiện vai trò sáng tạo tri thức của các trường đại học. Thành phố Hồ Chí Minh NXB Thanh niên, 2013. [38] Trần Mai Ước, Nghiên cứu khoa học của giảng viên–Yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, vol. 8, pp. 22-27, 2013. [39] B. Tabachnick và L. Fidell, Multivariate analysis of variance and covariance, Using multivariate statistics, vol. 3, pp. 402-407, 2007. [40] Việt Nam UPM, Xếp hạng chỉ số quy mô công bố của các cơ sở giáo dục đại học năm 2019, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội2020, Truy cập tạ 248 ĐỘNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NHU CẦU MỞ RỘNG CỦA MASLOW © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh i [41] J. C. Nunnally và I. Bernstein, The assessment of reliability, Psychometric theory, vol. 3, no. 1, pp. 248-292, 1994. Ngày nhận bài 17/06/2020 Ngày chấp nhận đăng 19/08/2020 ... Theo thống kê của Báo Sài Gòn giải phóng, số lượng cơ sở đào tạo trình độ tiến sĩ trên cả nước là 140 cơ sở đào tạo, và có gần 180 cơ sở đào tạo trình độ Thạc sĩ, do đó, có khoảng hơn 13,500 nghiên cứu sinh và hơn 105,000 học viên cao học Thanh Hung, 2022. Nhu cầu nghiên cứu sau đại học ngày càng tăng này, do các yếu tố xã hội và văn hóa, đòi hỏi sự mở rộng nhanh chóng các bằng cấp sau đại học của các cơ sở đào tạo đại học Việt Nam trong một khoảng thời gian ngắn, gây khó khăn cho việc giải quyết đồng thời cả nhu cầu tăng trưởng và chất lượng, đặc biệt khả năng NCKH Le & Bui, 2021. ...Một trong những yêu cầu đối với “nền giáo dục xuất sắc” đã xác định các chuẩn mực của thời đại mới và khuôn mẫu của người học hiện đại là vun đắp mối quan hệ với các tổ chức khác trên toàn thế giới thông qua nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là một quá trình có hệ thống áp dụng các phương pháp khoa học để giải quyết các vấn đề quan trọng, thỏa mãn mong muốn của con người. Tuy nhiên, việc nghiên cứu khoa học ở đối tượng học viên sau đại học vẫn đang còn nhiều hạn chế, đa phần do thiếu động lực nghiên cứu. Do đó, thông qua nghiên cứu định tính, thảo luận nhóm 11 học viên sau đại học, nghiên cứu này sẽ khám phá các động lực nghiên cứu khoa học của học viên sau đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả chỉ ra rằng có sáu yếu tố sẽ là động lực để thúc đẩy học viên sau đại học thực hiện nghiên cứu khoa học. Từ đó, nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp cho nhà trường nhằm nâng cao sự nghiên cứu khoa học của học viên sau đại học.... Công nghệ đang làm thay đổi một cách nhanh chóng các hoạt động của đời sống như giáo dục, ngân hàng, thương mại, nghiên cứu và cả ngành du lịch Agag & El-Masry, 2016;Hoa & Khoa, 2021; Khoa và cộng sự, 2020; Santini và cộng sự, 2020. Các ứng dụng di động chủ đề về du lịch đứng thứ 7 trong nhóm được tải về nhiều trên kho ứng dụng; và hiện có khoảng 30% số người dùng các ứng dụng di động để tìm kiếm giá máy bay hoặc phòng giá rẻ, 8% khách hàng dựa hoàn toàn vào ứng dụng di động để lên lịch trình và đặt vé Vipin, 2016. ...Sự phát triển của công nghệ đã thay đổi các hoạt động trong cuộc sống của con người, bao gồm cả hoạt động du lịch. Các du khách trẻ tuổi là những người có sự hiểu biết về công nghệ và thường xuyên đi du lịch, nên việc lựa chọn các dịch vụ khi du lịch là điều không thể tránh khỏi. Dựa trên mô hình chấp nhận công nghệ, mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về ý định sử dụng các ứng dụng di động để lựa chọn các dịch vụ du lịch của thế hệ Z trong thời kỳ chuyển đổi số. Bên cạnh phương pháp nghiên cứu định tính để xác nhận và điều chỉnh thang đo, nghiên cứu còn sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua việc sử dụng bảng câu hỏi trực tuyến tự quản trị để khảo sát 786 du khách thuộc thế hệ Z, những người từng đi du lịch và sử dụng các ứng dụng di động để đặt các dịch vụ trong quá trình thực hiện chuyến đi. Kết quả nghiên cứu ngoài khẳng định lại kết quả của mô hình chấp nhận công nghệ TAM được đề xuất bởi Davis 1986, thì còn chỉ ra rằng tính cách đổi mới của du khách là yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tích cực đến quá trình chấp nhận lựa chọn khi đi du lịch của du khách thế hệ Z. Nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ liên quan đến du lịch khi xây dựng, hoặc sử dụng các ứng dụng di động để quảng Khanh Bui Thanh KhoaThe Internet has provided a better method for consumers to collect product information and advice related to consumption from other consumers by electronic word of mouth eWOM. Due to the specific characteristics of Internet communication, eWOM deserves the attention of marketing researchers and the Digital Age, searching for information on electronic media about the education field is very popular for all people. It plays an important role that helps pupils searching more convenient, save time, and collect a ton of information for their admission purpose. Based on the integration of two models Information Adoption Model IAM and Theory of Reason Actions TRA that the research proposed a new theoretical model in the Information Acceptance Model IACM for Admission Intention to Private University. A quantitative study with a sample of 451high school pupils is conducted for evaluation of the theoretical model and research hypothesis. Besides, the research result helps private universities to understand more about the influences of eWOM to Admission Intention as well as planning out suitable strategies in their business to increase more productivity and training has been a common form of training all over the world for many years ago; however, it is only a side choice alongside offline training. Not only students but also lecturers prefer offline training to online training. However, in some cases of force majeure, specifically the nCov-19 flu pandemic, online training is considered the best way to teach. This study is based on the Technology Acceptance Model 2 TAM2 to learn about the lecturers' adoption of using the learning management system LMS at universities in Vietnam. Mixed research methods are used to achieve the research objectives. Online group discussions, as well as online surveys, were conducted to collect data to analyze and test the hypotheses as well as the theoretical model. The results of the study are similar to the conclusions of TAM2. Thereby, the study proposes managerial implications to improve the lecturers' is no denying that electronic commerce has brought many benefits to consumers. In the competitive market, capturing the benefit that customers perceived will be the best way for the sustainability of online businesses. However, in the context of increasing human life quality, re-examining the beneficial dimensions of electronic commerce e-commerce is a necessity. This study aims to develop and validate a perceived benefit scale of e-commerce concerning the mental viewpoint. The qualitative research and quantitative research method are used according to the development and validation procedure proposed by Churchill in 1979. The research result indicates that the perceived mental benefit of online shopping is in the second-order concept of four dimensions, including perceived shopping enjoyment, perceived social interaction, perceived discreet shopping, and perceived control. Some research and managerial implications are N. AlarifiBackground Academic research is an essential part of undergraduate and post graduate education to become qualified health care professionals. The objective of this study was to evaluate the attitudes of pharmacy students towards scientific research and/or academic careers in Saudi Arabia. Methods A cross-sectional survey based study was conducted among pharmacy students at King Saud University. A self-administered questionnaire was implemented over a period of 3 months January to March 2018. Results A total of 223 students returned the survey. More than one third students agreed that participation in research increased their interest in pursuing a career in research/academic pharmacy. Most students were interested in participating research during the course of study and believed that research training should be a compulsory part of teaching curriculum. In addition, more than half of students were interested in higher studies such as PhD after graduation. Most of students ranked lifestyle and earning potential as an important factor for them when choosing a specialty. Conclusions Pharmacy students had positive attitudes towards research activities and they desired to be involved more in research publications. However, addressing the barriers and improving student participation will increase their interest in academic Drummond Baruch FischhoffScientific research has the power to prompt strong emotional reactions. We investigated the relationship between such reactions and individuals’ understanding and judgments of the research. Participants read an article describing recent cancer research and reported the extent to which it evoked six emotions fear, anger, disgust, happiness, sadness, and surprise. We modeled these emotions two ways, either considering each separately or clustering them into two groups, for emotions with positive or negative valence. Even after controlling for the number of predictors, models based on the six separate emotions better predicted participants’ subjective understanding of the research, judgments of its quality, and trust in the scientists who conducted it. Participants who reported more disgust also had more negative judgments of the research and the scientists, but these relationships were weaker when participants reported their emotions before making these judgments, rather than after. We discuss practical and ethical implications of these WangShi-Cheng PanXiang-Yan ZhuBin LiaoTo examine scientific research and innovation and commercialization of scientific and technological achievements, we construct a two-stage data envelopment analysisDEA model with shared inputs, taking into account the capacity for university construction and the economic benefits of scientific research at colleges and universities. On the basis of this model, the paper explores overall and sub-stage efficiency changes at colleges and universities under two kinds of model. We find that the overall level of scientific research at colleges and universities varies greatly under the model of valuing innovation in science and technology and ignoring commercialization of scientific and technological achievements; the weaknesses in the scientific research system differ under the two models, but the changes in their efficiency are similar. Tsinghua University and the Harbin Institute of Technology have become effective in both models. We further find that the scientific research under a two-stage balanced model is better coordinated. Finally, the paper offers some suggestions on the current of colleges and article reviews research on the effects of reinforcement/reward on intrinsic motivation. The main meta-analysis included 96 experimental studies that used between-groups designs to compare rewarded subjects to nonrewarded controls on four measures of intrinsic motivation. Results indicate that, overall, reward does not decrease intrinsic motivation. When interaction effects are examined, findings show that verbal praise produces an increase in intrinsic motivation. The only negative effect appears when expected tangible rewards are given to individuals simply for doing a task. Under this condition, there is a minimal negative effect on intrinsic motivation as measured by time spent on task following the removal of reward. A second analysis was conducted on five studies that used within-subject designs to evaluate the effects of reinforcement on intrinsic motivation; results suggest that reinforcement does not harm an individual’s intrinsic motivation.
nghiên cứu khoa học về đồng tính