nghi thức chẩn tế miền trung

Tại đây Giám đốc Trung tâm Y tế Cửa Lò đã báo cáo nhanh về sản phụ dương tính với COVID -19; Sản phụ này từ miền Nam về đã được cách ly tại Trung tâm Kiểm Toán thị xã Cửa Lò và nhiều lần xét nghiệm đều âm tính với COVID -19. Xiao Yang với bộ ngực lớn như ngực của phụ nữ, nghi do ăn quá nhiều đồ ăn nhanh. (Ảnh: AsiaWire) Theo báo Qianjiang Evening Post của Trung Quốc, bệnh nhân có tên là Xiao Yang, sống ở quận Cangnan, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Cậu ta bắt đầu nhận thấy những sự thay đổi ở Đến chiều qua 10.10, mưa to kéo dài đã khiến mực nước trên các sông ở Quảng Nam dâng cao, ngập sâu nhiều nơi, giao thông chia cắt cục bộ, nhiều trường học ở miền núi bị uy hiếp. Tại xã Quế Long (H.Quế Sơn), một ngọn đồi phía ta luy dương bị sạt lở, khoảng 50 m 3 Đồng thời, Bộ Y tế đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu trang thiết bị, thuốc, vật tư y tế phục vụ công tác tiếp nhận và điều trị bệnh nhân Covid-19 của 2 bệnh viện và sẽ tiếp tục bổ sung máy thở, các thiết bị Telemedicine phục vụ cho công tác điều trị và hội chẩn từ xa của bệnh viện đa khoa Trung ương Bệnh viện đầu tiên ở miền Trung xét nghiệm được chủng mới virus Corona Bệnh viện T.Ư Huế tiến hành xét nghiệm cho những đối tượng theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế. Nếu phát hiện trường hợp nghi ngờ mắc virus Corona, Khoa Vi sinh của Bệnh viện có thể xét nghiệm mimpi bersetubuh dengan orang lain menurut primbon jawa togel. Không có quá nhiều sự khác biệt so với những phong tục tập quán khác, phong tục tang lễ của mỗi vùng miền cũng mang trong mình những nét riêng biệt, đặc trưng. Mọi người cùng đọc bài viết dưới đây, để tìm hiểu về phong tục tang lễ của người miền Trung có gì khác so với những miền khác nhé! Phong tục tang lễ hay còn được gọi là lễ tang, đám ma, ma chay… là một trong những nghi thức gồm nhiều lễ nghi mà người còn sống thực hiện đối với người đã khuất, nhằm thể hiện sự kính trọng và nhớ thương đối với họ. Việt Nam là một đất nước với nhiều dân tộc, vùng miền và đa dạng văn hóa. Do đó, ở mỗi vùng miền khác nhau sẽ có những phong tục thực hiện tang lễ khác nhau. Nhìn chung, vẫn sẽ có một vài điểm giống nhau trong quá trình thực hiện đối với phong tục tang lễ của người miền Trung. Phong tục tang lễ của người miền Trung diễn ra như thế nào? Địa phận sinh sống của người miền Trung tại Việt Nam Việt Nam có ba miền địa lý trải dài theo hình chữ S đó là Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Trong đó người miền Trung Trung Bộ là những người sinh sống trong các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận cùng một số các tỉnh Tây Nguyên. Trong khu vực miền Trung cũng được chia ra thành ba vùng theo vị trí địa lý là Bắc Trung Bộ gồm Thừa Thiên – Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa. Duyên hải Nam Trung Bộ gồm Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, TP. Đà Nẵng. Khu vực Tây Nguyên gồm Lâm Đồng, Đăk Nông, Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum. Cần chuẩn bị những gì trong phong tục tang lễ của người miền Trung Rất ít những gia đình nào chuẩn bị trước tang lễ cho người thân của mình. Thường thì gia chủ chỉ có thể quan sát những dấu hiệu của những người đã quá lớn tuổi thông qua những dấu hiệu tuổi già. Nhưng điều này cũng không hoàn toàn chính xác, vì vậy càng chứng tỏ được việc không thể chuẩn bị kỹ càng trước cho bất kỳ một tang lễ nào. Đối với người miền Trung, khi người thân vừa mới mất, họ sẽ nén lại sự đau thương mà chuẩn bị chỉn chu cho tang lễ với những việc như sau Báo tang cho những người trong gia đình, dòng tộc, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp,… Chuẩn bị trang phục cho người đã khuất và những người trong gia đình Tẩm liệm cho người đã mất Lau người, điều chỉnh lại hình thể, một số gia đình còn chỉnh trang lại cho người mất. Chuẩn bị quan tài thường thì theo phong tục tang lễ của người miền Trung khi mua quan tài cho người đã mất sẽ là những loại bằng gỗ có tính chống nước tốt, hình vuông là chủ yêu. Và bên trong quan tài sẽ được tra kỹ lại ở bốn góc bởi nước cơm và đất sét. Bên ngoài quan tài sẽ được trang trí bởi những loại hoa văn đơn giản như hoa sen. Để kiến không bò vào trong quan tài, gia chủ sẽ sử dụng dầu hỏa bôi vào bốn chân ghế đỡ. Phía dưới quan tài sẽ được đặt một dĩa đèn dầu phụng được thắp sáng cả ngày lẫn đêm. Người ta quan niệm rằng, làm việc này sẽ tránh được mùi tử khí tỏa ra. Lập bàn thờ trước khi tiến hành khâm liệm Bàn thờ vong sẽ được đặt ở phía trước cửa. Cho những ai chưa biết, thì bàn thờ vong còn được gọi theo một cái tên khác là cỗ linh sa một chiếc bàn rông. Linh sa sẽ bao gồm Bài vị, ảnh, quý danh, tuổi của người đã khuất và mâm trái cây với các loại như bưởi, chuối. Nếu như người đã mất theo đạo Phật, thì gia chủ cần phải chuẩn bị thêm bàn thờ Phật trước linh tọa Chuẩn bị cơm cúng cơm cúng người đã mất được làm bằng cách ép hai chén cơm chặt vào nhau và cắm một đôi đũa tre, rồi đặt trên đầu người mất. Một số thứ chuẩn bị khác như bông cúng 2 bình thường là hoa cúc, trái cây, nước trà, đồ chay, trà khô, ly để cúng, nhang đèn và quần áo vật dụng cá nhân của người mất. Ngoài ra, đa phần những gia chủ sẽ thuê thêm thầy chùa về làm lễ, thuê những đội người chuyên thổi kèn hát đám ma để cho tang sự được đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất. Những nghi lễ nào được diễn ra Đầu tiên, sau khi nhập liệm sẽ là lễ thành phục Đây là nghi lễ chịu tang, tất cả những người trong gia đình nội ngoại đều phải được bịt khăn tang. Thông thường, màu của trang phục và khăn tang sẽ là màu trắng. Để phân biệt nội ngoại, thì chắt ngoại sẽ bịt khăn vàng, còn nội sẽ là khăn đỏ. Nếu theo phong tục ngày xưa, nam và nữ sẽ có những kiểu khăn tang khác nhau, nhưng bây giờ thì để đơn giản hóa hơn, gia đình thường sẽ giống nhau về mặt hình thức. Sau lễ này thì mới chính thức phát tang và sau đó sẽ có những người quen, họ hàng, hàng xóm đến phúng viếng. Tiếp theo sẽ là nghi thức Tang gia Lễ này còn được gọi là “Chiêu tịch diện”. Có nghĩa là con cháu vào các buổi trong ngày sẽ thay nhau dâng khăn mặt, bàn chải đánh răng, chậu nước và thức ăn điểm tâm từ nơi người đã khuất thường nằm ra tới linh tọa, vừa đi vừa khóc thật to. Tuy nhiên, nghi lễ này đã dần bị xóa bỏ bởi sự cầu kỳ và không mang tính trang nghiêm. Lễ động quan và di quan Trước ngày di quan, gia đình của người mất thường cả đêm sẽ không ngủ. Mà họ sẽ làm thêm lễ chuyển cửu, quay quan tài một vòng với hàm ý cho vong hồn không còn nhớ đường về nhà nữa. Đến ngày động quan ngày phát dẫn, tang chủ sẽ đặt những tờ tiền dưới ly rượu đầy phía trước nóc áo quan để thưởng cho nhà đoàn, cốt ý muốn cho quá trình di quan diễn ra suôn sẻ. Nghi lễ Tế Đạo Trung Khi đi được một nửa đoạn đường đến nơi chôn cất, đoàn di quan sẽ tạm dừng lại làm lễ tế Độ Trung, mục đích của lễ này diễn ra là để đoàn di quan có thể được nghỉ ngơi, và những người chưa phúng điếu có thể đi điếu được trước khi chôn. Lễ Hạ Huyệt Hạ Khoáng Huyệt chôn người mất sẽ được đào 3 tấc đất 30cm, từ mặt đất đến nắp quan tài khoảng 1 mét, không quá cạn cũng không quá sâu làm xương bị khô hay bị mục. Người ta cho rằng, ba tất đất là nơi đủ tốt với khí âm dương. Lễ trị huyệt trước khi hạ huyệt sẽ đuổi được những vong hồn tà ác núp bên dưới huyệt. Nghi lễ tạ thổ tại nghĩa địa Sau khi hoàn tất quá trình chôn cất, gia chủ chuẩn bị hoa, bánh chuối, quần áo thổ thần để làm lễ tạ thổ. Phong tục hát đám ma Trong phong tục tang lễ của người miền Trung cũng có phong tục hát đám ma. Không khí tại tang lễ vô cùng ảm đạm bởi tiếng đàn nhị thê lương và tiếng kinh tụng trầm buồn. Những chuẩn mực trong tang lễ cần lưu ý Dù biết rằng, đám tang thực sự rất buồn đối với các gia chủ. Nhưng các gia chủ cũng cần thể hiện được sự văn minh trong quá trình tổ chức tang lễ như Không hát đám ma sau 22h đêm đến 6h sáng hôm sau. Có nhiều gia chủ vì quá đau xót mà quên đi những quy tắc chuẩn mực ảnh hưởng nhiều đến đời sống của những người xung quanh. Trong đám tang vái lạy như thế nào là đúng cách? Vái lạy là một hình thức thể hiện sự kính trọng với người đã khuất không riêng gì đối với với phong tục tang lễ của người miền Trung. Đàn ông và đàn bà sẽ có những cách thức vái lạy khác nhau Đàn ông Đứng tư thế nghiệm, chắp hai tay trước ngực, từ từ đưa tay qua trán rồi cúi xuống. Tiếp đến, xòe hai bàn tay úp xuống đất, cúi mình, quỳ gối chân trái và co lên rồi đứng dậy. Đàn bà Sẽ ngồi xuống mặt đất, để hai chân vắt chéo nghiêng về phía bên trái, bàn chân phải để dưới đùi chân bên trái và để ngửa lên trên. Sau đó tư thế vái lạy sẽ như đàn ông, nhưng khi đầu chạm đất sẽ đưa bàn tay đã xòe để lên đầu. Giữ tư thế trong 1 đến hai giây, rồi làm lại một lần nữa. Tang Lễ Hà Nội Tang lễ Hà Nội là một trong những nơi cung cấp những sản phẩm phục vụ tang lễ và dịch vụ hỗ trợ cho gia chủ chất lượng tại thủ đô Hà Nội hiện nay. Với phương châm hoạt động chu đáo nhiệt tình, tận tâm. Chúng tôi sẽ phục vụ tang lễ theo toàn bộ những yêu cầu mà khách hàng đưa ra, đồng thời cũng phù hợp với truyền thống. Sản phẩm đạt chuẩn chất lượng, Chi phí được tối ưu hợp lý, cùng đội ngũ nhân viên phục vụ chuyên nghiệp sẽ là lựa chọn hàng đầu cho khách hàng. Chúng tôi có dịch vụ Tổ chức trọn gói, Tổ chức tại Nhà riêng theo yêu cầu và Tổ chức tại Nhà tang lễ. Ngoài ra còn có Hỏa táng, chôn cất, Lập bàn thờ vong, Cho thuê xe tang lễ và bán đồ phục vụ tang lễ như phục trang, hoa, quách gỗ vàng tâm,… Bài viết trên là những chia sẻ của Tang lễ Hà Nội về phong tục tang lễ của người miền Trung. Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại cũng đã làm thay đổi một số ít về phong tục tang lễ của họ cho bớt rườm rà hơn và càng văn minh hơn. Quan trọng là sự chuẩn bị chu đáo đã thể hiện được sự hiếu đạo của người còn sống với người đã khuất! Pháp hội Trai đàn chẩn tế là nghi lễ có ảnh hưởng Mật giáo, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền. > Ý nghĩa siêu độ, bạt độ trong nghi thức Mông Sơn thí thực Nguồn gốc pháp hội Trai đàn chẩn tế Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo, tên thường trong khoa giáo là Du già Diệm khẩu, dân gian thường gọi là Phóng diệm khẩu, người Việt chúng ta gọi vắn tắt là Pháp hội Trai đàn chẩn tế, thuộc Pháp hội Thủy lục – nghi thức cúng cô hồn, do ngài Bất Không Tam Tạng Pháp sư Kim Cương Trí đời Đường ở Trung Quốc khởi truyền với các phần chú và ấn làm cơ bản. Từ thời Tống trở về sau, các Pháp sư đã bổ sung thêm phần hiển giáo giáo lý được diễn đạt bằng lời có thể hiểu được. Trai đàn chẩn tế hay Giải oan bạt độ và chẩn tế là một nghi lễ ảnh hưởng Mật giáo. Về niên đại Pháp hội Trai đàn chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện nay chưa thấy một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang tức Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào và quảng bá ở Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện nay chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. Ở nước ta, thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Thế kỷ III, ngài Khương Tăng Hội có soạn bộ “Nê hoàn phạn bái” Diễn nghi thức hành trì kinh Niết Bàn bằng lễ nhạc. Và sâu xa hơn, nghi thức này bắt nguồn từ thời Đức Phật, như đã đề cập trong Phật thuyết cứu bạt Diệm Khẩu Đà la ni kinh. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Có thể nói nôm na, trai đàn chẩn tế như một cuộc ủy lạo, và đối tượng ủy lạo ở đây là chúng sinh cõi âm, những cô hồn, oan hồn không nơi nương tựa, trong đó có cả người thân của mình vừa chết cũng như nhiều đời. Với cái nhìn của người học Phật, ngoài cuộc sống của con người chúng ta ở dương thế còn có những người bị oan nghiệp trói buộc, những oan hồn bị bỏ rơi, không nơi thừa nhận…, trước tình cảnh đó, người học Phật không thể làm ngơ mà phải hành động để giúp đỡ. Có những người khi còn sống có những tư duy, lời nói và việc làm không tốt, khi chết đi, chắc chắn sẽ nhận lấy những kết cục xấu. Người học Phật có quan niệm rằng phải giúp những người đó nhận ra chân lý bằng Phật pháp, lẽ phải để họ tự nhận ra và tự tháo gỡ những trói buộc, vượt thoát các nghiệp xấu. Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Với tâm từ bi, tình người phải được trải đều không phân biệt trong những người thân của mình. Ý nghĩa của tên gọi “Du già niệm khẩu”, “Thủy lục Giải oan cứu bạt trai đàn”, "Pháp hội Trai đàn chẩn tế",... Du già là phiên âm từ Phạn ngữ, có nghĩa là tương ứng. Người hành giả hành trì khoa nghi này phải có sự tương ứng giữa thân, khẩu và ý miệng tụng chú, tay thể hiện ấn, ý quán tưởng. Diệm Khẩu là tên của một loài quỷ luôn trong tình trạng đói khát như miệng luôn đang rực lửa. Theo kinh điển, với tâm từ bi, hạnh nguyện cứu độ muôn loài đang ở trong hoàn cảnh khổ nạn, Bồ tát Quán Thế Âm đã hiện thân làm quỷ Diệm Khẩu trong lúc ngài A Nan nhập định, để ngài A Nam bạch lại với Đức Phật, mong Đức Phật phương tiện giảng pháp cứu độ cho những loài quỷ và rộng hơn là những người bị oan khiên trói buộc, những cô hồn không nơi nương tựa, bị bỏ rơi… Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhắm đến người đã khuất, nhưng tinh thần và đặc biệt là phần hiển giáo còn có ý nghĩa nhắn gởi đến người còn sống những đạo lý tốt đẹp để sống tốt hơn. Hòa thượng Nhất Hạnh đã sử dụng những từ ngữ trong khoa giáo và sắp đặt lại theo chủ đề nhấn mạnh của Hòa thượng. Hòa thượng đã gọi tên pháp hội này là “Thủy lục giải oan bình đẳng cứu bạt trai đàn” và đã có sự giải thích trên trang nhà của Đạo Tràng Mai Thôn. Tên gọi pháp hội Thủy lục có từ thời Lương Võ Đế, với tên gọi đầy đủ là “Pháp giới thánh phàm thủy lục đại trai thắng hội”, do ngài Chí Công biên soạn mà hiện nay người Hoa vẫn hành trì. Thủy lục dưới nước và trên đất liền nhưng thực ra là bao gồm cả trên không nữa, nhưng vì theo quan niệm thông thường, cảnh giới ở dưới và trên mặt đất tạo oan nghiệp nặng hơn nên nhấn mạnh trong tên gọi như thế. Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Khái niệm “cô hồn” trong Pháp hội Trai đàn chẩn tế Các kinh sư ở Trung Hoa đại lục hành trì Pháp hội Trai đàn chẩn tế có nhiều điểm khác biệt, sự khác biệt rõ nhất là rất phong phú trong âm nhạc, giọng điệu, hình thức trang nghiêm hơn. Khoa nghi chẩn tế ở nước ta đậm đà bản sắc âm nhạc dân tộc và mang đặc điểm ba miền khá rõ. Qua sự chứng kiến pháp hội Thủy lục chẩn tế của quý thầy ở Trung Hoa, khoa nghi chẩn tế của Phật giáo Việt Nam có nét đặc trưng. Và đạo lực, sự trong sáng trong tâm linh của những vị hành giả hành trì pháp hội này chính là nội dung của pháp hội. Pháp hội Trai đàn chẩn tế Thường được tổ chức vào dịp nào? Pháp hội Trai đàn chẩn tế có thể tổ chức vào bất cứ lễ hội nào, vào bất cứ mùa nào trong năm cũng được. Nhưng không khí và tình cảnh quen thuộc với mọi người đó là trong dịp tiết tháng Bảy âm lịch, trùng hợp với hai sự tích đó là câu chuyện về ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ trong Phật giáo và ngày xá tội vong nhân của Đạo giáo. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp. Vào những dịp như báo hiếu tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ…, người ta cũng có thể tổ chức Pháp hội Trai đàn chẩn tế nhằm cầu âm siêu dương thái, trong tinh thần từ bi của đạo Phật, không chỉ hạn hẹp cho người thân mà còn cầu cho tha nhân, các chúng sinh khác. Theo quan niệm của Phật giáo, chiều tối là khoảng thời gian thích hợp với người âm. Thời gian của họ nên mình “nói chuyện” với họ sẽ dễ thuận hợp. Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm . Ý nghĩa trai đàn chẩn tế Trước nhất chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa trai đàn chân tế? Trai đàn là lễ hội cúng chay, chẩn tế là thí, cấp phát, phát chẩn gạo, thức ăn... giúp người đói. Trong đạo Phật, lập đàn chẩn tế là một nghi thức cúng, để bố thí thức ăn cho cô hồn. Trai đàn chẩn tế còn là lễ hội “làm chay” bố thí cấp phát lương thực giúp cho người qua cơn bức ngặt đói khát, không còn thiếu thốn, ban phát thí thực cho cô hồn hưởng thọ, được no. Trai đàn chẩn tế còn gọi là “trai đàn thủy lục” là một pháp hội cúng chay và cầu siêu cho những vong hồn người chết không có ai thờ tự, không có nơi nương tựa, đang sống vất vưỡng ở dưới nước và ở trên cạn. Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm niệm. Nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi, đấy là mục đích chính của đạo Phật.. Giáo lý Phật dạy thì nhiều, gồm tam tạng thánh điển, như nấc thang từ thấp lên cao, từ giáo lý dạy cho Cư sĩ cho đến giáo lý dạy cho hàng xuất gia, từ tiểu thừa lên đại thừa, những giáo lý cao siêu đó, cuối cùng được đúc kết "chỉ có một vị duy nhất là vị ly tham, vị giải thoát trần tục, xả bỏ vị kỷ, ích kỷ cá nhân mà sống chua, chia sẻ cùng cộng đồng...” Các bậc Tổ sư xưa, trong đó có các bậc Thiền sư tu đắc đạo, các bậc Đại sư dạy tu niệm Phật, các bậc Pháp sư dạy niệm chú. Việc chủ yếu của ba nhà Phật học nầy là chế tác đấy đủ pháp môn tu, trong đó có tự lực và tha lực và cuối cùng Ngài Bất Động pháp sư. Ngài tu ở núi Mông Sơn, thời nhà Tống hoằng truyền phối hợp tự lực và tha lực gom thành một mối thành bài kinh gọi là Mông Sơn Thí Thực. Trong bài Mông Sơn có dạy niệm Kinh, niệm Phật, niệm chú, tạo thành một uy lực dũng mãnh đánh tan những tham sân si, những nghiệp lực của chúng sanh vạn lọai. Trai đàn chẩn tế thời xưa Theo Ngài Đạo An 314-385, danh Tăng thế kỷ thứ IV thời Đông Tấn, hiện nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc thì tập tục cúng chẩn tế cho người chết không phải là tập tục của Phật giáo. Chỉ đến thế kỷ thứ VI, vua Lương Võ Đế 464–549 mộng thấy một vị Thần Tăng bảo rằng “Bốn loại quần linh trong sáu đường bị khổ vô lượng, sao chẳng lập đàn Thuỷ lục mà phổ tế. Trong các công đức, đó chính là công đức lớn vậy.” Vua Lương Vũ Đế hỏi các sa môn, thảy đều không biết, riêng ngài Chí Công khuyên vua rộng tìm kinh luận ắt có nhân duyên. Vua bèn sưu tầm kinh bối diệp để ở điện Pháp Vân, sớm tối giở đọc. Y theo việc ngài A Nan gặp Diện Nhiên quỷ vương, vua thiết lập ý nghĩa bình đẳng hộc thực, chế tác nghi văn, ba năm mới xong, rồi cử hành Thủy lục trai đàn ở chùa Kim Sơn, thuộc Trấn Giang, Giang Tô, Trung Quốc ngày nay Thời đại nhà Đường 618 - 907, đến nhà Tống 960-1279 bên Trung Hoa, mỗi đàn có một hay nhiều trai chủ đóng góp, cùng chung thực hiện. Tại Việt Nam, sách Phật “Thiền uyển tập anh” Tăng thống Huệ Sinh -1064 đời vua Lý Thánh Tông 1023 – 1072, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế. Đến thế kỷ thứ XVIII sau khi chiến thắng quân Thanh vua Quang Trung 1753 – 1792, vua Gia Long 8/2/1762 - 3/2/1820 sau khi thống nhất sơn hà, đổi tên nước là Việt Nam, lên ngôi đem triều đình và trăm họ gom về một mối. Nhà vua liền tổ chức trai đàn bạt độ “tạo cho không khí chết chóc, cảnh tàn sát lẫn nhau” sự điêu tàn “khí chết” không còn quây quần bên triều đình dòng họ Nguyễn Phúc sau thời chiến. Vào năm Giáp ngọ, Chúa Nguyễn Phúc Chu 1675-1725 cho tổ chức trai đàn tại chùa Linh mụ cầu cho quốc thái dân an, cho các quân lính tử trận được siêu thoát. Và vào những năm đầu thập niên 70, do chiến tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế. Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một đàn. Trai đàn tại các tự viện Năm 1961 Tân Sửu tại Tổ Đình Linh Sơn, núi Bồng Lai, Đức Tôn sư Thiện Phước - Nhựt Ý cũng tổ chức lễ cầu an cầu siêu, trai đàn bạt độ 7 ngày. Cầu nguyện anh linh chiến sĩ, anh linh liệt sĩ, các chư vị, chư thần, trăm quan thần cựu hy sinh vì đại nghĩa, các vong hồn yểu tử, kẻ chết sông người chết suối, tại nạn trên không, dưới biển. Lễ chẩn tế rất quy mô có cả tín đồ Phật tử tham dự ghi danh cầu nguyện, các đàn của các tự viện chùa Linh Sơn, Nhứt Nguyên bửu tự, chùa Phổ Hiền, chùa Phước Thiện An ở dưới thế cũng đăng sơn, rước các vong linh, thập lọai cô hồn câu hội nghe kinh, thọ hưởng phước lạc. Tháng 7 năm Nhâm Dần 1962 Linh Sơn cổ tự do Hòa thượng Thích Hồng Quang làm Trụ trì, gần chân núi Bồng Lai, hiện nay từ năm 2000 do Sư cô Thích nữ Hiếu Hạnh làm Trụ trì. Lúc bấy giờ Hòa thượng tổ chức trai đàn bạt độ cầu siêu thập lọai cô hồn có khoảng 800 người tham dự, lúc bấy giờ Sư cũng tham dự làm công quả chuyển lương thực cho chùa. Một cuộc thí thực bao giờ cũng tốn kém, Phật tử phải sắm sanh bánh nếp, bánh cấp, bánh cúng, bánh tét, bánh ngọt, các lọai giấy vãng sanh, giấy tiền, giấy vàng bạc, tất cá các lọai bánh ngọt được sắp xếp lên đến hàng chục nia, các lọai trái cây xẻ sẵn, muối gạo, tiền xu, tiền đồng, tiền bạc cắc, tiền giấy được đổi thành tiền nhỏ được đặt vào các nia trống, tất cả đều được sắp xếp đặt lên giàn dựng thật cao khoảng 12 mét. Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 7 năm đó, chư vị Pháp Sư, chư sơn thiền đức, chư Tăng đều lên trên giàn tác pháp, tụng kinh Mông sơn cho đến 15 giờ hồi hướng, đổ giàn. Dùng từ đổ giàn tức là xả lưỡi ông tiêu, thí các lọai bánh, tiền, trái cây đã cúng và được làm phép mở miệng cho các cô hồn ngạ quỷ đến nhận phần thọ thực, ăn uống. Người dương chủ yếu là trẻ em, thay mặt các gia đình người lớn đến xin lưỡi ông tiêu, xin bánh, nói là xin, chứ thật ra rất nhiều những hình ảnh chỉ là chụp giựt, ai giỏi thì lấy được nhiều, ai dở yếu hơn thì lấy được ít. Quan niệm của các vị là đem của thí nầy về nhà ăn sẽ hết bệnh, khỏi bị tà ma quấy nhiễu. Đây là truyền thống thí thực có từ thời nhà Đường, nhà Tống do chư Tăng bên Trung Hoa thực hiện. Truyền thống chẩn tế trai đàn bạt độ vẫn còn giữ truyền thống tại chân núi Bồng Lai, Tổ Đình Linh Sơn Bà Rịa Vũng Tàu, các nơi khác trong tông phong Tịnh Độ Non Bồng còn tác pháp như chùa Thiền Tịnh Dakao 1964, Long Sơn cổ tự Bình Dương, Quan Âm Tu Viện Đồng Nai, Nhứt Nguyên Bửu Tự Bình Dương, chùa Phước Thiện An Chí Minh, chùa Phước Ân Long An, chùa Phước An Gò Công, Tiền Giang hằng năm đều có cúng trai đàn bạt độ. Năm 1971, 1972 hai năm liền Đức Tôn sư tổ chức lễ trai đàn bạt độ cầu nguyện cho những người chết vì chiến tranh, mỗi lễ trai đàn tổ chức 7 ngày, mỗi ngày có khoảng lượt tín đồ Phật tử khắp nơi về tham dự, ghi danh cúng kiếng cầu nguyện chư vong linh. Cúng trai đàn chẩn tế có tâm vóc quy mô, quy tụ nhiều gia đình gọi là đại lễ. Cúng vong là nghi lễ các tự viện xưa cũng như nay cúng hàng ngày, hoặc ở gia đình có nhu cầu cúng kiếng, chỉ thỉnh một vị Thầy để chủ trì lễ cúng vong theo nghi thức Tiểu Mông Sơn. Cúng vong còn là nghi lễ cúng kiếng cầu siêu cho vong linh người thân vừa qua đời, cúng thất, tuần chung thất, cúng 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn khó, cúng kỵ giỗ theo nghi thức cúng cửu huyền. Lợi ích trai đàn chẩn tế Cúng trai đàn chẩn tế xong các gia đình rất vui mừng vì đã làm được việc phước thí lớn lao. Việc tổ chức trai đàn có 2 ý nghĩa chánh Một là, giúp các gia đình Phật tử có dịp gặp nhau, làm việc phước thí theo tâm nguyện của ông bà, của gia đình. Việc cúng kiếngg đem lại lợi ích, đoàn kết hòa hợp trong các giới Phật tử, tuy là Phật tử nhưng ít gặp nhau, nay được gặp lại trong lễ cúng trai đàn làm việc bố thí, sinh khí đạo đức sanh khởi, mọi gia đình an vui, an cư lạc nghiệp. Hai là tạo cho tâm Phật tử ngày càng được rộng lòng từ, biết thương yêu muôn loài vạn vật, muốn thấy nó sống, không muôn thấy nó chết. Việc trai đàn bạt độ, giúp cho Phật tử mở rộng tầm nhìn ngòai thế giới chúng ta đang ở còn có rất nhiều thế giới khác, thế giới vô hình, hai hình, có chân, không chân, nhiều chân, những chúng sanh khổ đau rất cần đến chúng ta. Người Phật tử tập lần xả bỏ những vị kỷ, những ích kỷ cá nhân, những pháp bất thiện như ích kỷ, cá nhân, hung bạo, dữ dằn lần lượt sẽ không còn, mọi người thương yêu nhau tạo cho tình nghĩa xóm làng được nhân rộng, hận thù tiêu tan, sự an lành luôn xuất hiện như trong thế giới nhà Phật. Ba là, Đạo Phật tiếp nhận Phật sự trai đàn chẩn tế từ các vua chú thời nhà Đường, nhà Tống, đem đạo vào đời, gần gũi quần chúng, đạo đức tăng trưởng, giúp cho mọi người gần gũi nhau hơn, xóm làng an cư lạc nghiệp. II. Người tu không ăn đồ cúng vong, cúng cửu huyền? Nói chung là “người con Phật”, đây là sự tín ngưỡng có phần sâu sắc "mọi người đều nghĩ có người bên kia thế giới, có cuộc sống bên kia thế giới, nên khi cúng kiếng cho chư vị bên đó, người cúng nghĩ rằng mọi người bên kia thế giới đã “hưởng rồi”, trong dương gian thường nói là “hưởng mùi vị”, hay “hưởng hơi”, xúc thực. Do đó còn gì để mọi người bên đây ăn uống, nên nói không ăn là vậy. Đứng về mặt đạo đức, người “dương thế”, mắt thịt phàm phu không ăn đồ cúng vì thức ăn đó không phải dành cho người “dương thế”, mà dành cho người bên kia thế giới được cúng. Đây cũng là một trong các lễ của nghi lễ cúng kiếng. Nói thế thôi, chứ trong nhà của mỗi người Việt Nam nhà nào cũng có làm lễ giỗ, kỷ niệm những người đã khuất, gọi là cửu huyền thất tổ, những người được cúng giỗ đều được thờ chung với bàn thờ cửu huyền. Người Việt rất quan trọng lễ kỵ giỗ, thường là làm trâu, bò, làm heo, nhiều gà vịt để sau khi cúng ông bà xong, đãi bà con, xóm giềng. Làm gì thì làm, ngày cúng giỗ ông bà, mọi người không sợ tốn hao tiền của, nghĩa là gia chủ sẽ đem hết tấm lòng tốt của mình mà đãi khách, cho đến buổi chiều thức ăn không còn, gia quyến phải ăn thịt “xà bần”, tức là đồ ăn dư cũng không sao. Chư Tăng Ni không thọ dụng đồ cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do chư Tăng Ni thuộc bậc thọ Thiên Nhơn cúng, bậc Ứng cúng, tức là người được cung cấp dưỡng nuôi, cúng dường. Muốn dâng cúng chư Tăng Ni người cúng hết sức cung kính mà lễ bái dâng cúng dường phẩm vật, thức ăn. Do vậy đồ cúng vong, cúng cửu huyền rồi không bao giờ đem dâng cho chư Tăng Ni, đó là do lòng thành kính bổn phận, có truyền thống lâu đời của Phật tử, nên có câu Tín chủ cúng dường Phật Pháp Tăng Chứng minh công đức nhờ Tam bảo Chú tâm nguyện độ thiện duyên nầy Tín chủ đời đời thêm phước báo. Sở cầu sở ỳ đều thành tựu Tín nhớ hạnh y nguyện trở về Nay mới gieo nhơn nhơn chánh giác Sau nầy chứng quả quả bồ đề. Bài học Khất sĩ Tại các chùa hằng ngày đều có lễ cúng vong, một là cúng thí thực, nhà Sư tụng Tiểu Mông Sơn thí gạo muối, nước sau thời công phu chiều thí muối gạo, nước trước chánh điện, hai là cúng vong những vị mới qua đời nơi nhà cửu huyền. Tất cả những thức ăn cúng tại nhà cửu huyền, mỗi món một ít, sau khi cúng xong, do thời gian cúng lâu quá, thức ăn nguội lạnh, nên đem hấp lại cho nóng và đơm thêm thức ăn mới vào, dành đãi cho tín đồ Phật tử và mọi người cùng ăn rất quý và trọng thị. Riêng chư Tăng hoặc chư Ni khi thọ thực, bắt buộc phải cúng quả đường dâng cúng lên Phật và cập Tăng, thọ thực tại trai đường, do đó chư Tăng Ni không bao giờ gặp thức ăn cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do không ăn đồ cúng là vậy. Do nền nếp sinh họat của giáo đoàn và các tự viện, tịnh xá như trên, nên không có câu nói "người xuất gia không ăn đồ cúng.” Chúng ta cũng không nên gán ghép cho người xuất gia thành ngữ “chư Tăng Ni không ăn đồ cúng”, một câu nói có thể làm mất tinh thần lục hòa, chưa thật sự tôn kính chư tôn đức Tăng già và giáo đoàn của Phật. Thành kính là phước báo Quên mình là cội phước Cầu xin cho tín chủ Mau đắc quả thanh tịnh

nghi thức chẩn tế miền trung